Từ ngày đầu tiên bước vào nhà dòng Ngôi Lời sau khi
tốt nghiệp đại học cho đến tám năm sau khi tôi được Đức Giám Mục đặt tay tấn
phong để trở thành một linh mục truyền giáo thực thụ, tôi đã học hỏi được nhiều
điều từ cách sống trong cộng đoàn, cách diễn giải Kinh Thánh cho đến cách cử
hành các bí tích phụng vụ, v.v. Nhưng cũng có những thứ khác mà tôi chỉ thực sự
cảm nhận được một khi đã dấn thân vào đời sống truyền giáo nơi mà những kiến thức
và lý thuyết luôn bị thách thức bởi những tình huống thực tế khiến tôi phải không
ngừng điều chỉnh lối suy nghĩ và cách thức làm việc của mình. Bài viết này
không có tính chất thần học cao siêu hay là lý thuyết gì mới mẻ. Nó đơn thuần
chỉ là những cảm nhận của riêng tôi trong những khoảng khắc mà tôi dừng lại để
suy gẫm về những gì mình đã trải qua trong hành trình sống đời sống ơn gọi
thánh hiến và truyền giáo.
Khi nghĩ về đời sống truyền giáo của mình, tôi nhận
ra có ba điều quan trọng không thể thiếu được vì chính qua những điều này mà
công việc và căn tính nhà truyền giáo của tôi được hình thành và phát triển.
Thiết nghĩ những điều tôi chia sẻ ở đây cũng không khác biệt với kinh nghiệm của
các nhà truyền giáo khác về tính chất. Có gì khác biệt thì chỉ là những tình huống
trong cuộc sống của từng người ở những bối cảnh và môi trường phục vụ khác
nhau. Nhưng đó cũng là những điều làm cho những trải nghiệm của mình đặc biệt
và đủ có giá trị để chia sẻ với người khác trong tinh thần cởi mở và cảm thông.
Điều quan trọng đầu tiên mà tôi muốn chia sẻ đó là
lòng ao ước của một nhà truyền giáo để được phục vụ trong cánh đồng truyền giáo
của Chúa. Tôi nhớ rất rõ từ khi khái niệm ơn gọi truyền giáo được khơi dậy
trong thâm tâm tôi, tôi đã luôn luôn ao ước được đi tới một nơi thật xa, khác hẳn
với môi trường quen thuộc trong cuộc sống thường nhật để phục vụ Chúa và tha
nhân. Ở đó tôi có thể cống hiến bằng những khả năng mà Chúa đã ban cho mình
cũng như những gì tôi đã học hỏi được qua việc học tập và đào tạo. Ở đó tôi có
thể chia sẻ tình yêu mà Thiên Chúa dành cho nhân loại bất kể giới tính, dân tộc
hay địa vị xã hội . Khi bước vào nhà dòng, tôi đã luôn hướng tới ngày mà tôi sẽ
được bề trên sai đi tới một vùng đất xa xôi để tôi có thể sống phiêu lưu với ơn
gọi truyền giáo của mình. Và điều mà tôi ôm ấp trong lòng bấy lâu cũng đã trở
nên hiện thực khi tôi nhận được bài sai đi phục vụ ở một tỉnh lẽ vùng đông bắc
Thái Lan, ở trong một giáo xứ nhỏ bé kém phát triển mà gần một nửa các “giáo
dân” đi tham dự Thánh lễ Chúa Nhật là các bệnh nhân và trẻ em mồ côi bị nhiễm
HIV đang được chăm sóc và nuôi nấng trong trung tâm của hai hội dòng Ngôi Lời
và dòng Mẹ Tê-rê-xa.
Nhà thờ Tổng Lãnh Thiên Thần Micae là một ngôi nhà
thờ nhỏ bé nhưng xinh xắn nằm trên một con đường khá rộng vừa mới được xây cất.
Mặc dầu tương đối gần trung tâm của tỉnh, nhưng xung quanh nhà thờ có nhiều đồng
ruộng nơi người dân trồng lúa hoặc cây mía. Ngoài ra còn có những cây bạch đàn,
cây hoa sữa, những bụi chuối và những loại cây khác được trồng trong khuôn viên
nhà thờ cũng như dọc con suối nhỏ chạy ngang qua đất giáo xứ làm cho khuôn viên
nhà thờ nhìn rất thiên nhiên và mát mẻ.
Khi đến nhà thờ Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, tôi thấy
rằng ở đây nhiều giáo dân không đi lễ ngày Chúa Nhật vì họ bị ảnh hưởng nhiều bởi
văn hóa của người Phật giáo. Đối với người theo đạo Phật tại Thái Lan thì việc
đi chùa không phải là điều bắt buộc, vì thế nhiều người Công giáo không có khái
niệm bỏ lễ ngày Chúa Nhật là một tội trọng. Một phần người Công giáo ở đây
không có thói quen đi lễ cũng vì nhà thờ chỉ mới được xây dựng sau này bởi một
tu huynh dòng Ngôi Lời, còn trước đó giáo dân có muốn đi lễ cũng không có nhà
thờ để đi.
Khi tôi mới đến nhận xứ thì trong cộng đoàn không có
ban hành giáo, không có giáo lý viên, không có ca đoàn hoặc nhạc cụ, cũng không
có ban giúp lễ hoặc nhóm sinh hoạt giới trẻ. Tôi là vị linh mục quản xứ người
thứ 6 trong thời gian 6 năm từ khi nhà thờ được xây cất. Khi chứng kiến điều
này phản ứng đầu tiên của tôi là buồn vì đời sống đạo trong giáo xứ thật ít ỏi
và tẻ nhạt. Ngân sách của giáo xứ cũng ít ỏi không kém, chỉ vỏn vẹn 300 USD một
tháng cho tất cả những chi phí và sinh hoạt của giáo xứ cũng như của vị quản xứ.
Khi đó, nhà xứ chưa được xây dựng. Tôi ở trong một căn nhà nhỏ trong trung tâm
trẻ mồ côi. Trong những ngày đầu tiên đó, tôi hay ngồi trước hiên nhà, nhìn các
em mồ côi chạy chơi trên sân cỏ mà trong lòng tự vấn, mình có thể làm được điều
gì ở nơi xứ đạo này?
Trong khi tôi băn khoăn và đặt ra những câu hỏi cho
chính mình cũng là lúc tôi chợt nhớ ra rằng Chúa đã ban cho tôi chính điều mà
tôi đã hằng mong ước. Ở đây, giữa những con người bị xã hội xa lánh và ruồng bỏ,
giữa những con người nguội lạnh về tâm linh, và giữa muôn con người không biết
gì về Thiên Chúa, tôi đã được trao phó trọng trách quan trọng là giới thiệu Tin
Mừng của Chúa đến với họ. Ở đây tôi đã được ủy thác công việc làm chứng nhân
cho Chúa và gieo rắc niềm vui Tin Mừng của Ngài để nước trời ngày càng được triển
nở. Và như thế tôi đã bắt tay vào công việc của mình trong thái độ hăng say và
bình an. Tôi đã nhận ra rằng sứ vụ của mình không phải là đi đến một nơi sung
túc, đầy đủ tiện nghi và mọi thứ đều nằm trong khuôn khổ. Ngược lại, điểm khởi
đầu của tôi là một căn nhà nhỏ bé giữa một cánh đồng truyền giáo rộng mênh mông
để ở đó tôi có thể tha hồ phiêu lưu, có thể thử nghiệm, có thể làm tất cả những
gì mà sức lực và tinh thần của tôi cộng hưởng với ân sủng Chúa có thể làm được.
Giờ đây tôi không thể chỉ sống với một giấc mơ hão huyền
nhưng với chính những thách đố của thực tại trong đời sống truyền giáo của
mình.
Và đây chính là điều quan trọng thứ hai mà tôi muốn
chia sẻ trong bài viết này. Đó là ơn Chúa. Kiến thức tôi có rất nhiều. Dầu sao
đi nữa thì tôi cũng đã có trong người mấy cái bằng về sinh hóa học và Á châu học
cũng như thần học. Tôi cũng đã được đào tạo kỹ lưỡng bởi các cha trong hội dòng
của tôi ở Hoa Kỳ để có thể đảm nhận công việc của mình. Nhưng tôi đã nghiệm ra
một điều, kiến thức và khả năng mà thôi thì không thể nào đủ. Và cho dù lòng ao
ước có cao đến bao nhiêu mà không có ơn Chúa thì khó lòng làm nên việc.
Có một sự việc mà tôi luôn cho rằng đó là ơn Chúa đối
với tôi xảy ra sau khi tôi đến nhận xứ được hơn một tháng. Một ngày nọ, khi tôi
đang nghỉ trưa thì bổng nhận được một cuộc điện thoại. Trên điện thoại là giọng
nói của một người phụ nữ. Cô ta giới thiệu mình tên Ratiya, đang ở Nong Bua
Lamphu, cách nhà thờ khoảng 10km. Cô nói rằng đã đến ở Nong Bua Lamphu 5 năm rồi,
nhưng thời gian qua không đi lễ vì một số vấn đề cá nhân trong cuộc sống làm
cho cô xa lìa Chúa và nhà thờ. Nhưng bây giờ cô muốn trở lại với đời sống đạo
và hơn thế nữa, cô muốn cộng tác vào các sinh hoạt của giáo xứ.
Những lời nói của cô Ratiya làm tôi không thể tin được
vì nó quá bất ngờ, đặc biệt là ở một môi trường như tỉnh Nong Bua Lamphu. Tôi hẹn
gặp cô Ratiya để nói chuyện thêm vì trao đổi trên điện thoại không thuận tiện lắm.
Lúc đó khả năng tiếng Thái của tôi cũng chỉ mới ở mức căn bản nên giao tiếp
trên điện thoại vẫn còn gặp khó khăn. Khác với nhiều người Thái mà tôi đã từng
giao tiếp, cô Ratiya đến gặp tôi đúng giờ hẹn. Và tôi cảm thấy bất ngờ khi thấy
cô là một người còn trẻ, chỉ mới ngoài 30 tuổi. Cô cho biết công việc chính của
cô là dạy học sinh mẫu giáo ở một trường tư trong tỉnh. Sau khi chia sẻ ít nhiều
về câu chuyện đời sống của cô, mình hiểu được những khó khăn trong cuộc sống mà
cô đã trải qua. Mình hỏi cô Ratiya rằng: - Vậy cô nghĩ rằng mình có thể cộng
tác vào những việc nào của giáo xứ?
Cô Ratiya trả lời: - Thưa cha, tôi có thể dạy giáo
lý vì trước đây tôi cũng đã từng dạy giáo lý khi còn ở quê tôi.
-Như vậy thì tuyệt vời quá. – Tôi nói. - Ở đây hiện
giờ không có giáo lý viên, mà các em thiếu nhi cũng khá nhiều. Trong trung tâm
mồ côi có rất nhiều em cần phải học giáo lý. Mà các seour chăm sóc thì toàn là
người nước ngoài với khả năng tiếng Thái quá hạn chế nên không thể dạy cho các
em được.
- Thưa cha tôi có thể dạy cho các em.
- Ngoài việc dạy giáo lý ra cô còn có khả năng gì nữa?
– Mình hỏi tiếp.
- Thưa cha tôi có thể đánh đàn organ.
Nghe đến đây mình cảm thấy phấn khích vô cùng vì đó
chính là điều mà nhà thờ đang cần. Thời điểm đó tiếng nhạc trong Thánh lễ chỉ
phát ra từ một cái máy chơi đĩa CD có nhạc thánh ca không lời thu sẵn. Tại Thái
Lan vì có không ít nhà thờ thiếu người chơi nhạc cụ nên những đĩa CD nói trên
là nhằm phục vụ cho những nơi có hoàn cảnh như thế. Mặc dầu trong nhà thờ của
mình chưa có đàn, nhưng dù có cũng không có người chơi. Việc tìm cho được một
cây đàn thì không khó, nhưng để có người chơi đàn trong Thánh lễ không phải dễ
dàng có được ở một vùng quê.
Hóa ra cô Ratiya có rất nhiều khả năng để có thể
giúp công việc cho giáo xứ. Cô không chỉ biết dạy giáo lý, biết đánh đàn, biết
hát, mà còn có kiến thức về phụng vụ. Khi đó tôi đã nghĩ rằng, có nằm mơ cũng
không thể tìm ra được một người giúp việc như cô Ratiya, đặc biệt là ở một nơi
như thế này. Và còn kỳ lạ hơn nữa là cô đã đến với tôi một cách thật bất ngờ. Mặc
dầu cô đã định cư ở đây tới 5 năm, mà suốt thời gian qua đều có những vị linh mục
người Thái có, người nước ngoài có đến để phục vụ, nhưng cô đã không liên lạc để
cộng tác cho đến khi tôi tới nhận xứ. Cuối cùng, tôi chỉ có thể xác quyết rằng,
sự xuất hiện của cô Ratiya là một hồng ân của Chúa dành cho tôi khi tôi đã mở
lòng đón nhận sứ vụ của mình với thái độ chấp nhận và bình an.
Với sự giúp đỡ của cô Ratiya cũng như những giáo dân
chủ chốt khác trong cộng đoàn, dần dần giáo xứ cũng có được một ban hành giáo,
có chương trình giáo lý và sinh hoạt giới trẻ đều đặn. Thời gian sau, giáo xứ
còn tổ chức những chương trình dạy hè và sinh hoạt cho các em thiếu nhi trong tỉnh,
những chương trình tĩnh tâm, hội trại và kỷ năng sống cho giới trẻ, chương
trình bác ái xã hội để giúp đỡ người nghèo, đặc biệt là những cụ già neo đơn,
và còn có thêm một chương trình radio Công giáo phát sóng mỗi tối trên đài
radio địa phương. Với sự cộng tác của cô Ratiya, các giáo dân, và các bạn trẻ,
giáo xứ nhỏ bé của tôi trở nên một nơi sinh động với rất nhiều sinh hoạt tâm
linh và giáo dục; mà những chương trình này thì chỉ có được khi Chúa ban cho
tôi một người trợ tá không chỉ có tài nằng mà còn có nhiệt huyết.
Để nói về ơn Chúa thì còn có nhiều ví dụ khác mà tôi
có thể nêu lên như một dẫn chứng về tình yêu và lòng thương xót mà Chúa đã dành
cho tôi trong cuộc đời phục vụ của mình. Nhưng tôi không nói nhiều vì tôi nghĩ
rằng chỉ một sự việc trên cũng đã đủ để chứng mình rằng ơn Chúa đã đồng hành với
tôi ngay từ những bước đầu trên cánh đồng truyền giáo. Và đến bây giờ ơn Chúa vẫn
đang sát cánh cùng tôi trong việc học tập cũng như mục vụ đòi hỏi sự dấn thân
và kiên trì để làm được.
Điều cuối cùng mà tôi muốn chia sẻ cũng là một điều
quan trọng không kém ân sủng của Chúa. Đó là lời cầu nguyện. Tất cả các nhà tu
trì đều ý thức được rằng việc cầu nguyện cần thiết như thế nào trong đời sống của
mình. Giữa muôn vàn thử thách mà một nhà truyền giáo phải trải qua, có thể nói
không cách nào hữu hiệu và thiết yếu hơn để đối phó bằng lời cầu nguyện. Tôi đã
cảm nhận được điều này một cách sâu xa trọng sự việc tai nạn giao thông xảy ra
với đoàn giới trẻ Việt Nam trên đường đi tham dự Đại hội giới trẻ Việt Nam tại
Thái Lan ngày 2 tháng 6, 2014 vừa qua. Trong đoàn trên 60 người đi tham dự từ
Bangkok, một trong những chiếc xe đã gặp tai nạn khiến xe bốc cháy và dẫn đến hậu
quả khủng khiếp là tài xế và 13 người Việt đã bị thiệt mạng một cách thảm
thương. Trong chiếc xe gặp nạn chỉ còn hai bạn trẻ là thoát chết. Và một trong
những nạn nhân là linh mục Giacobe Vũ Văn Hanh, OP. Tai nạn xảy ra cách nơi tổ
chức đại hội là nhà thờ Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, tỉnh Nong Bua Lamphu 100
km. Khi đó tôi trong vai trò là người tổ chức đại hội đang chờ đợi để đón tiếp
tất cả các bạn trẻ Việt Nam từ nhiều nơi trên nước Thái đến tham dự. Nhưng thay
vì được chào đón các tham dự viên trong tinh thần phấn khởi hân hoan, thì tôi
đã nhận được hung tin từ lúc sáng sớm về vụ tai nạn mà trong mơ tôi cũng không
bao giờ hình dung ra nỗi.
Sau khi thông tin về vụ tai nạn lan ra, không chỉ
tôi hoặc những người gần gũi cha Giacôbê và các bạn trẻ đã tổ chức cầu nguyện,
mà ở nhiều nơi trên khắp thế giới, rất nhiều người cũng đã chung lời cầu nguyện.
Tôi đã rất cảm động khi thấy các nhóm bạn trẻ Việt Nam tại Thái Lan cũng như những
cá nhân các bạn trẻ trong cộng đoàn Công giáo Việt Nam trên đất Thái đã nhiệt
tình tổ chức quyên góp để giúp đỡ các gia đình trong lúc khó khăn. Một điều có
thể hiểu được rằng sự thật về vụ tai nạn thương tâm không hề thay đổi. Chúa đã
không làm cho những người thiệt mạng sống lại. Chúa đã không biến vụ tai nạn trở
nên như một cơn ác mộng mà khi chúng ta tĩnh thức và hoàn hồn thì ngộ ra đó chỉ
là một giấc mơ. Ngài cũng đã không làm cho vụ tai nạn bớt khủng khiếp. Nếu ai
đã có mặt ở hiện trường và chứng kiến chiếc xe bị cháy nát, hoặc những xác người
bị thiêu rụi thì mới hiểu được sự kinh khủng của vụ tai nạn như thế nào. Tuy
nhiên, qua lời cầu nguyện, Ngài đã làm cho nỗi đau khổ của chúng tôi và đặc biệt
của các gia đình dễ chịu đựng hơn. Ngài đã giúp cho nỗi tuyệt vọng trong chúng
tôi mau tan biến hơn. Và Ngài đã giúp làm cho nỗi bàng hoàng trong chúng tôi được
cất đi một cách nhanh chóng hơn. Đây chính là kết quả của việc cầu nguyện liên
lĩ của tất cả chúng tôi là những thân nhân, ân nhân, và người quen biết cha
Giacôbê và các bạn trẻ.
Riêng đối với tôi, trong những ngày điều phối công
việc để giải quyết vấn đề liên quan đến chính quyền, xác nhận danh tính thi
hài, và tổ chức đưa các thi hài về quê hương, tôi đã từng chia sẻ với nhiều người
rằng quả thật đây là một cú sốc vô cùng lớn lao đối với tôi. Sự việc xảy ra chỉ
năm ngày sau ngày tôi kỷ niệm 8 năm trong đời sống linh mục. Và có thể nói trong
suốt 8 năm làm linh mục, tôi chưa bao giờ phải đương đầu với một sự việc to lớn
như vụ tai nạn vừa qua. Và tôi càng bàng hoàng hơn khi sự vị xảy ra liên quan đến
một sinh hoạt mà chính tôi là người tổ chức và điều hành. Trước đây tôi chưa
bao giờ nghĩ tới việc trong đời sống linh mục của mình tôi phải trải qua hoặc
phải đương đầu với những sự việc như thế này.
Vì thế việc phải làm gì khi có tình huống này xảy ra
hoàn toàn không nằm trong vốn kiến thức hoặc kinh nghiệm mà tôi đã gom góp được
trong đời sống mục vụ của mình. Trong suốt những năm được đào tạo trong nhà
dòng hoặc được dạy dỗ trong trường triết học rồi thần học, không có một môn học
nào giúp tôi chuẩn bị để đối phó với một sự việc khủng khiếp quá mức tưởng tượng.
Vì thế, trong những ngày đó, tôi phải cầu nguyện rất nhiều. Tôi chỉ biết tha
thiết cầu xin Chúa ban ơn soi sáng để tôi có thể làm những điều tốt nhất cho
các nạn nhân và gia đình của họ.
Trong những ngày đó cũng đã có rất nhiều người cầu
nguyện cho tôi. Dường như mỗi ngày tôi đều nhận được những tin nhắn trên điện
thoại hoặc trên mạng rằng họ đang nhớ đến tôi và đang cầu nguyện cho tôi. Đặc
biệt mẹ của tôi ở Mỹ mỗi ngày vẫn để lại những lời nhắn tin trên điện thoại để
động viên tinh thần của tôi cũng như chia sẻ những nỗi khổ mà tôi đang trải
qua. Mẹ tôi cũng không quên nhắc nhở tôi phải tin tưởng và phó thác vào Chúa.
Tôi tin rằng chính lời cầu nguyện của tôi cũng như những người thân quen của
tôi đã giúp cho tôi có những ơn cần thiết để thực hiện trách nhiệm mà Thiên
Chúa đã trao phó cho tôi. Những ngày đó, tôi ăn ngủ không tốt vì quá lo lắng và
bận rộn với công việc. Nhưng tôi đã vượt qua những thử thách đó bằng lời cầu
nguyện và lòng tín thác vào Chúa. Cho đến đêm cuối cùng khi đoàn xe chở các thi
hài và người thân của các nạn nhân về Việt Nam từ Thái Lan, trong lòng tôi chỉ
biết nói lên lời cảm tạ vì nếu không có sức mạnh của Chúa thì có lẽ tôi cũng đã
bị kiệt quệ về thễ xác cũng như tinh thần.
Trải qua những kinh nghiệm và biến cố khác nhau
trong đời sống truyền giáo, tôi đã nhận thức được rằng. Để phục vụ hiệu quả,
tôi cần phải có lòng ao ước đi kèm với những khả năng và kiến thức nhất định để
biến lòng ao ước đó trở thành hiện thực. Nhưng đó chỉ là một phần nhỏ của cuộc
sống của một linh mục truyền giáo. Có những thứ mà không có bất cứ khả năng hoặc
sự nỗ lực nào có thể đem lại cho mình. Đó là ân sủng, một món quà ban tặng từ
bàn tay của Thiên Chúa. Đó là lời cầu nguyện như một phương tiện để chống chọi
với những khó khăn và thách đố trong cuộc sống. Đối với một nhà truyền giáo phục
vụ những người nghèo, những người sống bên lề xã hội, nhiều khi cũng cần lắm khả
năng giao tiếp và tìm những nhà hảo tâm giúp đỡ về tài chánh hoặc điều chuyên
môn. Nhiều khi cũng cần lắm khả năng quản lý các dự án và tổ chức những sinh hoạt.
Nhưng công việc sẽ rất khó khăn nếu không có ơn Chúa và không có những lời cầu
nguyện. Tôi rất may mắn khi tôi đã ngộ ra rằng, trong đời sống phục vụ của tôi,
thỉnh thoảng tôi sẽ mở miệng ra để xin lời cố vấn từ những người chuyên môn. Có
khi tôi sẽ mở tay ra để xin và nhận những đồng tiền đóng góp từ những nhà hảo
tâm. Đó là những điều tôi sẽ làm rất dè dặt và chỉ làm khi nào thật sự cần thiết.
Nhưng đối với ơn sủng và lời cầu nguyện thì tôi sẽ luôn sẵn sàng làm một người
ăn xin chuyên nghiệp. Tôi sẽ không bao giờ ngần ngại xin Chúa ban cho tôi những
ơn cần thiết để sống ơn gọi của một nhà truyền giáo một cách xứng đáng. Và tôi
sẽ không bao giờ dè dặt khi mở miệng xin người khác cầu nguyện cho tôi để tôi
có đầy đủ tâm huyết và sức mạnh để thực hành những gì được trao phó cho tôi.