Monday, October 6, 2008

Câu chuyện truyền giáo




“Khi lớn lên con muốn làm gì?” Đó là câu hỏi quan trọng mà trong đời sống của bất cứ người trẻ nào sớm muộn gì thì cũng phải đối diện với nó. Người đặt ra câu hỏi có thể là thầy giáo, chú bác, hoặc một người bạn nào đó của bố mẹ. Câu trả lời của người trẻ như thế nào thì có lẽ tùy thuộc vào sở thích của người trẻ trong lúc ấy.


Khi còn học cấp II, tôi đã trả lời rằng tôi muốn trở thành một phi hành gia vì lúc ấy tôi rất mê tìm hiểu về các hành tinh trong vũ trụ. Vài năm sau, tôi nói là muốn trở thành một nhà văn vì lúc ấy tôi bắt đầu thích đọc những tác phẩm văn chương nổi tiếng và ước gì mình cũng sáng tác được một tiểu thuyết tuyệt vời như vậy. Sau này, khi còn học cấp III, tôi lại có ý định muốn trở thành một nhà tâm lý học để giúp người ta giải quyết những vấn đề khúc mắc trong cuộc sống. Rồi khi vào đại học thì tôi lại quyết định theo đuổi con đường y khoa. Nhưng cuối cùng, tôi đã không trở thành bất cứ cái gì mà tôi từng dự định.

Tôi đã trở thành một nhà truyền giáo.

Làm một nhà truyền giáo có lẽ không nằm trong danh sách “nghề nghiệp” của đa số các bạn trẻ thời đại. Tuy nhiên đây là một trong những công việc đầy thách đố, phiêu lưu, và thú vị nhất mà chúng ta có thể làm trong cuộc sống.

Sau khi tôi lãnh nhận chức linh mục vào năm 2006 tại thành phố Chicago ở Hoa Kỳ, tôi được bài sai đầu tiên đi phục vụ tại Thái Lan. Khi gia đình và bạn bè nghe nói là tôi sẽ phục vụ ở nước chùa tháp, họ nói với tôi rằng, “Liệu có học được tiếng Thái không đấy? Họ đâu dùng chữ cái ABC để viết đâu. Chữ viết như con giun con dế thì làm sao đọc được?”

Chính tôi cũng không biết mình có học được hay không. Nhưng tôi tự nhủ, “Mặc kệ nó. Cứ thử rồi biết.”

Tôi bước xuống phi cơ để đến với một thành phố Bangkok nóng bức, ngột ngạt, và đầy xe cộ bụi khói vào cuối tháng 2 năm 2007 để bắt đầu tiến trình học tiếng Thái. Sau khi học được vài tháng thì tôi nhận thấy rằng, thực ra, học tiếng Thái cũng không đến nổi khó khăn như người ta tưởng tượng. Càng đi sâu vào ngôn ngữ, nói được, nghe được, viết được, tôi càng nhận ra vẽ đẹp của âm điệu và cách xử dụng từ của tiếng Thái. Tôi rất thích cái cách người đàn ông đệm thêm chữ “khráp” và người phụ nữ đệm thêm chữ “kha” để kết thúc một câu nói một cách lịch sự. Tôi thích cái cách âm chữ “kha” biến thành chữ “kháa” khi đó là một câu nói năn nỉ van xin.

Càng hiểu được tiếng Thái thì tôi càng hiểu những nét đặc trưng văn hóa ở xứ sở này. (Thực ra tôi vẫn chưa hiểu tại sao nhiều người Thái thích trể hẹn hoặc thích bỏ hàng chục trái ớt đỏ choét vào các món ăn của họ. Nhưng đó là một vấn đề khác). Tôi thích thú với cách người Thái chấp tay cúi chào nhau, cao thấp tùy theo tuổi tác và địa vị xã hội. Tôi cũng hiểu thêm về các yếu tố tôn giáo, mê tín dị đoan và truyền thống được đan dệt vào lối suy nghĩ và ý thức hệ của người dân. Tôi cũng hiểu được phần nào tại sao người Thái rất thích xem phim kinh dị.

Sau khi học chương trình tiếng Thái xong và đi thực tập thêm 3 tháng, tôi bắt đầu bước những bước chân khập khiểng vào cánh đồng truyền giáo tại một tỉnh lẻ ở vùng đông bắc nước Thái Lan có tên là Nong Bua Lamphu (có nghĩa là Ao Sen Lamphu). Cái tên nghe cũng lãng mạn chán. Nghĩ rằng đến đây thì đi đâu cũng sẽ thấy ao sen, nhưng hóa ra cũng giống như đi lễ nhà thờ Vườn Xoài cũng không thấy có bao nhiêu cây xoài.

Tỉnh Nong Bua Lamphu chỉ có duy nhất một nhà thờ Công giáo, được xây dựng cách đây 6 năm. Nhà thờ xây theo kiểu Tây, có mái màu sẩm đỏ. Nhìn giản dị nhưng được giữ dìn rất sạch đẹp. Người xây lên nhà thờ là sư huynh Damien Lunders, một nhà truyền giáo Ngôi Lời. Thầy Damien cũng là người xây Trung tâm Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bên cạnh nhà thờ và hoạt động trong lĩnh vực HIV/AIDS.

Sáu năm từ khi giáo xứ chính thức khai trương, ở đây đã trải qua 6 linh mục quản xứ - dòng có triều có. Tôi là người thứ bảy. Mọi người đang hy vọng rằng tôi sẽ ở lại đây lâu dài để giúp cho giáo xứ nhỏ bé ổn định và phát triển. Tại Thái Lan, trong 65 triệu dân số, chỉ có 300,000 người theo đạo Công giáo – có nghĩa không đến 0.5%. Tại tỉnh Nong Bua Lamphu chỉ có khoảng hơn 20 gia đình Công giáo. Gọi là “gia đình” nhưng có gia đình chỉ có một hoặc hai người đi lễ. Có thể nói cánh đồng truyền giáo tại đây còn bao la bát ngát.

Tôi đến Nong Bua Lamphu vào một ngày tháng tư, giữa mùa nóng ở đây, chỉ vài ngày trước khi Lễ hội nước bắt đầu, để đảm nhận trách nhiệm làm cha quản xứ của nhà thờ Tổng lãnh thiên thần Micaen. Tôi ở trong một căn nhà bên cạnh nhà nuôi các em mồ côi bị nhiễm HIV do các seour dòng Mẹ Têrêxa chăm sóc. Trong nhà mồ côi có 21 em, trong đó có 19 em trai và 2 em gái tuổi từ 5 đến 15. Gần đây, tôi đã dọn qua một căn nhà xứ mới được xây bên cạnh nhà thờ để tiện cho việc mục vụ trong giáo xứ.

Bên cạnh nhà thờ là TT HIV/AIDS Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp và nhà chăm sóc bệnh nhân HIV đang trong giai đoạn cuối. Thời gian ngắn ngủi phục vụ ở đây đã làm tôi nhận ra rằng việc tôi đi theo ơn gọi truyền giáo và được sai đến Thái Lan để làm việc sau khi lãnh nhận bí tích truyền chức thánh là điều đã hoàn toàn xảy ra trong sự quan phòng của Thiên Chúa.

Ở đây tôi nhận ra rằng những nhà truyền giáo như thầy Damien, các seour, và bản thân tôi phải làm như thế nào để phục vụ các anh em đang đau khổ với căn bệnh HIV/AIDS. Đây là một công việc chất chứa đầy thách đố nhưng vô cùng có ý nghĩa. Những nhà truyền giáo như chúng tôi ý thức được rằng, việc phục vụ và chăm sóc những người thấp hèn, những người bị xã hội xa lánh và bạc đãi, chính là công việc mà chúng tôi là những Kitô hữu và là những nhà truyền giáo cần phải lao mình vào.

Trên thực tế không phải chỉ riêng các nhà truyền giáo mới cảm nghiệm được như thế, mà tất cả những ai cộng tác vào công việc cũng có một cảm nhận như nhau. Một cô tên Wasana, là người có trách nhiệm chăm sóc cho các bệnh nhân trong trung tâm đã chia sẻ với tôi rằng: “Giờ đây tôi hoàn toàn dấn thân vào việc chăm sóc bệnh nhân. Tôi hãnh diện khi có thể giúp đỡ họ hồi phục sức khỏe để trở về sống trong gia đình, cộng đồng, và xã hội. Những nụ cười trên khuôn mặt các bệnh nhân chính là nguồn trợ lực tiếp sức cho tôi để tiếp tục thực hiện công việc của mình.”

Tôi hiểu được suy nghĩ của cô Wasana. Khi tôi mới đến Nong Bua Lamphu, tôi gặp Tum, một thanh niên mới 25 tuổi. Anh ta mới được nhận vào trung tâm không lâu. Tum đã bị liệt chân nên phải dùng hai cánh tay để di chuyển. Tôi nói với thầy Damien, “Tình hình anh này nghiêm trọng quá.”

Thầy Damien trả lời, “Trước đây còn tệ hơn nữa. Khi mới đến anh ta ăn cơm cũng không được. Nhân viên phải đút cho anh ăn. Bây giờ anh tự ăn tự di chuyển, như thế là đã đỡ hơn rất nhiều.”

Nhờ có sự khuyến khích, thúc đẩy, và điều trị, Tum đã dần dần lấy lại sức lực. Thoạt đầu anh tập đi bằng cây gậy. Bây giờ anh có thể tự mình đi lại mà không cần ai giúp đỡ. Tum càng khỏe mạnh và tự tin thì những nụ cười lại xuất hiện trên khuôn mặt thường xuyên hơn. Gần đây tôi còn thấy anh đeo lại những chiếc bông tai mà trước đây anh đã lấy ra khi đang bệnh nặng. Tôi nghĩ rằng chính những nụ cười của Tum làm cho những người như Wasana có thêm sự phấn khởi và kiên trì trong công việc của họ.

Có một điều để nói thêm về cô Wasana, đó là cô không phải là người Công giáo. Thế mà cứ mỗi ngày, khi trời về tối, cô ta lại vào nhà thờ cầu nguyện một mình trước ánh nến hắt hiu của nhà tạm. Cô cũng không quên khuyến khích những bệnh nhân hãy đến với Chúa để được ngài ban ơn cứu chữa.

Ngoài công việc chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS giai đoạn cuối, TT Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp tiếp tục triển khai các hoạt động khác liên quan đến vấn đề HIV/AIDS trong địa phương. Mỗi tuần đều có các cuộc họp của những người bị nhiễm để hỗ trợ tinh thần và kiến thức cho nhau. TT hỗ trợ cho những gia đình có người nhiễm HIV/AIDS có phương tiện sinh sống bằng dự án chăn nuôi bò, chương trình giúp đỡ lương thực, và qũy giáo dục. Vào tháng 5, hơn 400 bộ đồng phục, túi sách, giày dép được phân phát cho các học sinh trong vùng đến từ các gia đình có người bị nhiễm HIV. Chương trình giáo dục về HIV và giới tính đi đến 40 trường học mỗi năm để truyền đạt cho các em học sinh kiến thức để thay đổi hành vi và thái độ đối với vấn đề giới tính và HIV/AIDS. Với nỗ lực này TT hy vọng rằng sẽ góp phần giảm bớt số người trẻ bị nhiễm HIV trong tương lai.

Trong vai trò là linh mục quản xứ giáo xứ Micaen, có sự gắn liền về tinh thần cũng như không gian với nhà mồ côi Mẹ Têrêxa và TT Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, vấn đề HIV/AIDS đóng vai trò quan trọng trong công tác mục vụ của giáo xứ. Bản thân tôi cảm thấy rất hạnh phúc khi thấy hiện nay có nhiều người trước đây không đến nhà thờ dự lễ vì sợ bị lây nhiễm HIV, giờ đây cũng đã đến nhà thờ thường xuyên.

Tôi dâng lời tạ ơn Thiên Chúa khi một em gái bị nhiễm HIV trong nhà mồ côi xin được học giáo lý, lãnh nhận bí tích rửa tội, và bây giờ thường xuyên lên đọc bài đọc trong Thánh lễ Chúa Nhật cũng như giúp lễ mà không cảm thấy e thẹn hoặc ngại ngùng. Giờ đây lớp giáo lý cho các em mồ côi bị nhiễm HIV cũng đã được mở ra để cho các em học hỏi và hiểu biết về Chúa nhiều hơn.

Tôi tạ ơn Thiên Chúa khi giới trẻ trong giáo xứ khẳng định rằng chúng không sợ những người mắc bệnh HIV, và chúng không ngại khi ngồi ăn chung với những đồng bạn bị nhiễm HIV.

Tôi tạ ơn Thiên Chúa khi từ ghế chủ tế nhìn xuống các hàng ghế giáo dân tôi thấy người bị nhiễm lẫn người không bị nhiễm ngồi bên cạnh nhau, cùng cầu nguyện và ca hát với nhau, và lên rước lễ với nhau.
Tôi lại thấy ngạc nhiên khi một bệnh nhân người Phật giáo nói với tôi rằng: “Thưa cha, lễ ngày thường, nếu cha thiếu người lên đọc sách, con có thể lên đọc cho cha.”

Rồi một thanh niên khác tên Chai đến từ tỉnh Nong Khai cũng làm cho tôi nhận ra ân sủng của Chúa chan hòa dường bao. Người đàn ông này bị nhiễm HIV là do nhiều đêm theo bạn bè lao mình vào những quán bar và những nhà chứa khi còn đi làm việc xa. Nhưng giờ đây, cứ mỗi chiều thì anh ta lại vào nhà thờ đi lễ. Khi đến nghi thức rước lễ thì anh cũng đi lên để lãnh nhận phép lành vì anh không phải là người Công giáo. Gần đây anh đã khỏe lại nên quyết định trở về Nong Khai để kiếm tiền nuôi bản thân và gia đình. Trước khi rời trung tâm, anh đến gõ cửa nhà xứ để chào tạm biệt tôi. Tôi cũng ban phép lành cho anh lần cuối trước khi lên đường. Khi đang trở vào bên trong nhà xứ, tôi quay mặt nhìn ra thì thấy Chai đang đứng trước tượng Chúa Kitô Phục Sinh trước nhà thờ chắp tay cầu nguyện lần cuối cùng trước khi rời khỏi nơi này.

Câu chuyện truyền giáo của tôi được thêu dệt bởi những câu chuyện nho nhỏ, đơn sơ như thế đấy. Niềm hạnh phúc của tôi là nhận thấy rằng bằng nhiều hành động khiêm tốn, cộng đoàn Công giáo nhỏ bé ở tỉnh Nong Bua Lamphu đang học hỏi cách vượt qua những sợ hải và e ngại để thực hiện ơn gọi Kitô giáo và để trở nên nhân chứng thực sự cho tình yêu và sự hiệp nhất của Thiên Chúa với những người xung quanh, đặc biệt là những anh em bên Phật giáo. Khi chúng ta thể hiện tình yêu và sự chấp nhận đối với mọi người, đó là cách tốt nhất để cho người khác thấu hiểu ý nghĩa thực sự của việc đi theo Đức Giêsu Kitô.

Đối với tôi đó chính là bản chất của việc làm truyền giáo, có nghĩa là làm cho Chúa Giêsu Kitô được nhận biết và yêu mến qua lời nói cũng như việc làm. Cuối cùng thì đa số những người tôi gặp gỡ trong cuộc đời truyền giáo của tôi sẽ không trở thành Công giáo và cũng không bao giờ nghĩ đến việc sẽ theo đạo Công giáo. Nhưng tôi hy vọng rằng, một cách nào đó, tôi đã giúp cho họ biết rằng Đức Kitô là ai, và hiểu rằng Ngài là lý do cho tất cả những gì tôi đang dấn thân trong cuộc sống.

Sunday, October 5, 2008

Life from the mission field



“What do you want to do when you grow up?” In almost every young person’s life, sooner or later you will encounter this all important question from someone you know. It could be your teacher, your uncle or your parents’ friends who ask. And how you answer the question probably depends on what you are interested in at the time.
When I was in junior high school, I answered that I wanted to be an astronaut because at that time I was really into learning about the solar system. A few years later, I said I wanted to be a writer because by then I got into reading literature. When I was in high school, I thought about being a psychologist. Once I entered college, I set out to be a doctor. But in the end, I became none of those things.
I became a missionary.
Being a missionary is probably not on the list of careers choices for most of you out there. But it is probably one of the most challenging, rewarding, and adventurous things that one can do in life.
Every year, in October the Church celebrates Mission Sunday. This year, Mission Sunday takes place on October 19. On this occasion, I would like to share with you a little bit about what it is like to be a missionary. Hopefully, through this sharing, some of you will also think about this path for your own life.
After I was ordained as a priest in 2006 in Chicago, I was sent to my first mission assignment in Thailand. When friends and family heard that I would be serving in Thailand, they said to me, “How are you going to learn to read that weird language? They don’t even write with ABCs. The words are all swirly.”
I didn’t really know myself. But, what the heck. Why not give it a shot?
I stepped off the plane to a steamy, traffic-congested, and bustling Bangkok in early 2007 to begin Thai language studies. As it turned out, learning Thai wasn’t all that bad. The more I got into the language and able to speak and understand, the more I began to admire the beauty of the new language. I loved the way men used “khrap” and women used “kha” to politely end their sentences.
The more I understood the language the more I began to understand Thai culture and society. OK. I still don’t understand why Thai people so often show up late for appointments or put like 50 red chillies in all their food, but that’s beside the point. I appreciate the respectful way that Thai people put their hands in front of them to “wai” when greeting one another. I also understand how religion, superstition, and traditions are all woven into the people’s way of thinking. I also came to understand why so many of the Thai movies are of the scary genre.
After I finished my Thai language study, I began to venture into the mission field in a small province in the northeast of Thailand called Nong Bua Lamphu. This province has only one Catholic Church. It was built 6 years ago by another Divine Word Missionary named Br. Damien Lunders. Br. Damien also built the Mother of Perpetual Help AIDS Center next to the church.
In the six years that the church has been opened, there have been six priests working here. I’m the seventh. Everyone is hoping that I would serve here long enough to create stability for the small Catholic community here and help it to develop. In Thailand, out of 65 million people, there are only 300,000 Catholics – not even 0.5 percent of the population. In Nong Bua Lamphu province, we only have about 20 families who are Catholic. So I guess you can say the mission field is wide open.
I came to Nong Bua Lamphu on a hot April afternoon to take over the position of pastor here. I lived in a house next to an orphanage for children with HIV, ran by the sisters from Mother Teresa’s congregation. There are 21 children in the orphanage, 19 boys and 2 girls ranging in age from about 5 to 15. Recently, I moved to a new rectory built next to the church so that my work for the parish would be more convenient.
Next to the church is the Mother of Perpetual Help AIDS center and hospice. The center is run by Br. Damien. In the short time that I’ve began my mission work in this province, I have to say that it has made me realize that my decision to follow the missionary vocation, and choosing Thailand as the first country to which I would serve after taking my final vows and priestly ordination was a decision that must have occurred with God’s providence.
Here, I see what it is like for missionaries – Br. Damien, the Charity Sisters, and myself – to work serving our brothers and sisters who are suffering from HIV/AIDS. It is a highly challenging but ultimately worthwhile work. We missionaries know in our heart, that the work of caring for people who are poor, who are often left out of society, and are feared by others, is exactly the kind of work that we as Christians, and as missionaries should be doing.
In fact, it’s not just missionaries who feel this way, but all those who collaborate in this work feel the same. One woman named Wasana, who has the duty to take care of the patients in the hospice, which this year has been short of beds for all those who want to come for treatment, shared with me: “Right now, I am fully committed to serving the patients. I am proud to be able to help them regain their health and strength, so that they can return to live happily in society, in their family, and in the community. The smile of the patients is the source of strength for me to carry out my work.”
I understand what she means. When I first came to Nong Bua Lamphu, I saw Tum. He was also recently admitted to the hospice. He had lost use of his legs and they were very thin. He used his arms to move about. I said to Br. Damien, “Wow, he’s in a really bad shape.”
Br. Damien replied, “You should have seen him when he first came. He couldn’t even feed himself. We had to feed him ourselves. Now he’s eating on his own and moving about on his own. That’s already a great improvement.”
Through encouragement, a little pushing, and medical treatment, Tum began to gradually gain more strength. At first, he started training himself using a walker. Now he is able to walk on his own. As he becomes stronger and more confident, the smiles also appear more often as well. I think it is these smiles that provide the energy for people like Wasana.
Wasana, by the way, is not a Catholic. But almost everyday, late at night, she goes into church to pray, and always recommends other patients, whoever they are, to go to church to pray and ask for blessings.
Beside hospice work, the Mother of Perpetual Help Center continues to expand its other outreach programs in the province. Every week, there are HIV/AIDS meetings taking place with support groups. The center assists families with HIV/AIDS to have a means to make a living through the cattle project, through food assistance program, and education funds. At the beginning of every school year, children from HIV/AIDS families receive school uniforms. In May, 400 uniforms were distributed by the center throughout the province. And the HIV/AIDS education program that attempts to reach 40 different schools each year continues to be carried out in an active manner with the hope the this effort will contribute to a decrease in the rate of infection among the youth in the future. It takes five years to go to all the schools in the province.
As the pastor of St. Michael’s Church, which is so closely connected with the Mother of Perpetual Help Center and the orphan’s home, the issue of HIV/AIDS play an important part in the pastoral work of the church. I myself feel a tremendous sense of happiness when I see that nowadays, we have people who used to did not come to Mass on Sunday because they were afraid of being in the same vicinity as people with HIV, now come to church regularly.
I give God thanks when a young girl with HIV from the orphan’s home asked to learn catechism, to be baptized, and now comes up to read the Sunday Readings or serve at the altar without being afraid that others will make fun of her.
I give God thanks when teenagers in the parish declare that they are not afraid of people with HIV, and they don’t mind sitting and eating with their friends who are HIV positive.
I feel a great sense of gratefulness to God when I see in the church, people with HIV and without HIV sitting together, praying together, and coming up to receive Holy Communion or blessings together.
I feel amazed when a Buddhist man in the hospice said to me, “Father, on weekdays, if you don’t have anyone to do the readings in Mass, I can come do the readings for you.”
And another man, named Chai from Nong Khai province. He became infected with HIV because he spent many evenings looking for fun in the bars and brothels. But now, almost every afternoon, he would go to Mass. When it came time for communion, he would come up to receive a special blessing because he wasn’t Catholic. Recently, he left the center to return to his home in Nong Khai because he felt strong again. He came to say good bye to me, and I blessed him again to send him off. As I walked back into the retctory, I looked back and saw Chai standing in front of the statue of Jesus in front of the church to pray one last time before leaving. This man never became Catholic, but I feel that as a result of his stay in the hospice, he came to have faith in God, and felt that he could come to God for help and blessings.
As a priest and a missionary, it gives me a great joy to see that in so many ways, our small Catholic community in Nong Bua Lamphu is learning how to get over our fears and reluctances in order to live out our call as Christians to become true witnesses to the love and unity of God to our fellow Christians as well as to the larger community. In demonstating our love and acceptance for all people, I think there is no better way than to show to others the true meaning of being believers of Jesus Christ.
For me that is the real essence of being a missionary – making Christ known to others by our words and by our actions. In the end, most of the people I encounter in my missionary life will not become Catholic or even think about becoming Catholic. But I hope that in some ways, I have helped to make them know who Jesus Christ is and that I do what I do because of Him.