Saturday, April 21, 2007

TRĂM NĂM KIỀU VẪN LÀ KIỀU:

Nguyên do và hậu quả của tệ nạn buôn phụ nữ, trẻ em qua biên giới

Kiều xưa, kiều nay

Thuý Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là nhân vật được biết đến rất nhiều trong nền văn học Việt Nam. Trong tác phẩm, tác giả miêu tả sự xung đột giữa tài năng và định mệnh mà nhân vật Thúy Kiều là nạn nhân của cái gọi là số mệnh ấy trong xã hội bất công và xấu xa lúc bấy giờ. Ngay cả một cô gái có thể nói là “mười phân vẹn muời” cũng không thoát khỏi vòng quay khắc nghiệt và thô bạo của xã hội. Đọc truyện Kiều, người thời nay cũng như xưa ai cũng ngậm ngùi xót thương cho số phận của nàng Kiều, một cô gái tài sắc tròn đầy, xuất thân từ một gia đình gia giáo lại phải đi bán mình cho Mã Giám Sinh nhằm mục đích chuộc lại người cha bị bắt oan. Không dừng lại ở đó, nàng Kiều lại bị ông chủ sang tay cho Tú Bà vào lầu xanh. Nơi đây, Kiều đã trở thành một mặt hàng kinh doanh cho bà chủ trong vòng 15 năm trước khi có thể trở lại quê hương đoàn tụ với gia đình và người yêu của mình. Mang trong người một quá khứ không mấy tốt đẹp dưới con mắt của xã hội thời bấy giờ, Thúy Kiều và Kim Trọng mặc dầu là vợ là chồng nhưng tình yêu theo nghĩa trang trọng nhất đã không còn.

Nguyễn Du đã viết lên câu truyện của nàng Kiều để phản ảnh thực trạng của đất nước trong những tháng ngày căm go do sự tranh giành quyền hành của các bè phái. Tuy nhiên, thực trạng được diễn tả trong câu chuyện của tác giả không chỉ là vấn đề của xã hội lúc ấy, nhưng nhìn từ một góc độ khác, nó vẫn là một vấn đề mang tính thời sự trong xã hội Việt Nam thời hiện đại. Nếu có sự khác biệt nào đó giữa nàng Kiều dưới ngòi bút của Nguyễn Du và các nàng kiều hôm nay, thì đó chính là việc các cô gái hôm nay phải kiếm tiền bằng việc bán rẻ mình ở xứ người. Họ có sắc, nhưng không có tài; chưa có cơ hội học tập, thậm chí chưa đủ khôn để hiểu tính chất của việc mình làm. Dù sao đi nữa thì Thúy Kiều còn có một sự lựa chọn, và hiểu được mục đích của việc bán mình. Nàng còn đủ sáng suốt để thấy được hệ luận sau này. Đến khi đoàn tụ với gia đình, nàng còn có một Kim Trọng yêu thương và nâng đỡ. Còn những nàng kiều ngày nay có quá ít chọn lựa. Và ở đoạn cuối con đường hầu như không có tia hy vọng nào ngoài những bệnh tật, nỗi nhức nhối trong thân xác và trong tinh thần. Và dường như họ khó có thể tìm thấy một ý nghĩa trong vận mệnh làm nguời.

Những nàng kiều thời đại là những phụ nữ, các em gái vị thành niên bị lừa bán ra nước ngoài để phục vụ cho ngành công nghiệp tình dục, hoặc làm vợ cho những người không thể lấy vợ ở quê mình, hoặc để làm lao động rẻ tiền. Tháng 3, năm 2004, cộng đồng người Việt hải ngoại sững sờ khi phát hiện tại “Chợ” eBAY
[i] có ba phụ nữ Việt Nam bị rao bán đấu giá, khởi điểm với giá 180.000 Đài tệ. Điều tra cho thấy ba phụ nữ Việt bị một người Đài Loan mang danh hiệu “mmm0052g” rao bán từ ngày 2 tháng 3. Trên trang web có 5 tấm hình của một người phụ nữ và 2 cô gái chưa tròn 15 tuổi. Thời hạn đấu giá là mười ngày, và người bán tuyên bố chỉ “chuyên chở hàng” về Đài Loan. Sau khi cộng đồng người Việt tại Úc và Mỹ phát hiện sự việc từ ngày 5 tháng 3 và đã gởi thư đến eBAY thì công ty này đã chấm dứt cuộc đấu giá, tạm ngưng quyền lợi của thành viên “mmm0052g”, cũng như giao cho công an Đài Loan những thông tin sẵn có để hỗ trợ cho việc điều tra hành động bất hợp pháp này.
Trường hợp rao bán phụ nữ đã làm cho nhiều người Việt phẫn nộ. Tuy nhiên, vấn đề buôn bán phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài là một tệ nạn đã xảy ra nhiều năm và vẫn đang tiếp tục tung hoành mà cộng đồng quốc tế cũng như nhà nước Việt Nam chưa tìm ra giải pháp bài trừ hiệu quả. Mỗi năm trên toàn thế giới có đến hai triệu phụ nữ, trẻ em bị bán để làm những những việc ngoài ý muốn. Chỉ riêng vùng Đông Nam Á, mỗi năm có đến 225.000 người bị lừa bán qua biên giới và bị cưỡng bức làm nghề mãi dâm, lao động, ôsin…. Tổ chức Quĩ Nhi đồng Quốc tế (UNICEF) ước lượng rằng trong vòng 30 năm qua, cả Châu Á có khoảng 30 triệu người đã trở thành nạn nhân của tệ nạn buôn người. Hiện nay tại khu vực ĐNA, tình trạng buôn người không những không có dấu hiệu thuyên giảm, mà còn có xu hướng gia tăng. Báo cáo của tổ chức này cho hay hết một phần ba phụ nữ, trẻ em các nước đang mở mang trong khu vực là đối tượng mà bọn buôn người nhắm đến. Ba năm qua, tỷ lệ trẻ mãi dâm ở Thái Lan tăng 20%. Xã hội Việt Nam cũng chiếm một phần đáng kể trong tệ nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài.


Tự lực cánh sinhTừ năm 1986, Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa để phát triển và hội nhập, đất nước liên tục chuyển mình, từ một xã hội khép kín lạc hậu trở thành một xã hội trên con đường đô thị hoá với một viễn tượng quốc tế. Trong nỗ lực biến chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung qua kinh tế thị trường, từ năm 1988 đến 2000, mức thăng tiến trong chỉ số GDP đạt trung bình 7,1%. Trước đổi mới, Việt Nam phải nhập khẩu gạo, nhưng đến đầu thập niên 1990 lại trở thành quốc gia xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới, và cuối thập niên 1990 thì Việt Nam trở thành quốc gia xuất khẩu cà phê đứng thứ nhì trên thế giới. Mặc dầu tốc độ thăng tiến GDP đã tụt xuống còn 5,8% năm 1998 và 4,8% năm 1999 do nhiều yếu tố nhiêu khê trong khâu quản lý kinh tế của nhà nước, nhưng năm 2000 thì chỉ số đã tăng lên 6,8%. Và những năm gần đây, chỉ số GDP đã lên tới trên 7%. Những thành quả về kinh tế cũng như tuổi thọ của người Việt đã tăng. Tuổi thọ trung bình là 69. Và tỷ số người mù chữ là dưới 10%. Điều đó cho thấy Việt Nam đã tiến rất xa so với tình trạng tồi tệ trước đổi mới, lúc đó Việt Nam nằm trong số 5 quốc gia nghèo nhất thế giới. Gần đây với các cuộc đàm phán tích cực đang diễn ra, Việt Nam có thể ôm ấp hy vọng sẽ được gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cuối năm 2005 để nhanh chóng hội nhập vào mạng lưới kinh tế toàn cầu.

Mặc dầu việc cải cải cách đã tạo cơ hội cho nhiều người nâng cao mức sống, nhưng những thay đổi quá nhanh chóng trong kinh tế và xã hội đã tạo nên những áp lực mới mà người dân chưa đủ khả năng để đối phó và thích nghi. Cụ thể, trên 1/3 người Việt vẫn đang sống trong cảnh đói nghèo, tình trạng ấy đã và đang gây sức ép trên các gia đình Việt Nam. Theo UNICEF, tuy Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, nhưng vẫn còn trên 36% trẻ em dưới 5 tuổi ở trong tình trạng kém dinh dưỡng. Các gia đình Việt Nam, mặc dầu có nhiều lựa chọn hơn trước đây, nhưng trách nhiệm của họ cũng phải gia tăng. Thời còn dưới chế độ bao cấp, cuộc sống tuy khó khăn nhưng tương đối ổn định. Nhưng hiện nay, hành lang bảo vệ không còn nữa, các gia đình phải tự lực cánh sinh, và gánh nặng bỗng trở nên chồng chất. Khoảng cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng gia tăng. Dĩ nhiên, những gia đình nghèo nhất và trẻ con thường là những nạn nhân của mặt trái của quá trình cải cách. Họ không thể nương nhờ vào Nhà nước nhưng phải tự trang trải những nhu cầu cần thiết như nhà cửa, y tế, và những nhu cầu căn bản khác trong đời sống. Sự phát triển nhanh chóng cũng đã khiến cho phụ nữ và các em gái trở nên dễ bị tổn thương và dễ dàng trở thành những nạn nhân của sự quên lãng, lợi dụng, và bóc lột. Họ phải đương đầu với nhiều vấn đề trong xã hội mà trước đây chưa bao giờ phải trải qua. Trong lịch sử văn hoá, xã hội Việt Nam, người phụ nữ luôn có vai trò quan trọng trong vấn đề kinh tế của gia đình. Một cuộc điều tra của UNICEF trước đây cho thấy phụ nữ là người quản gia của 27% các gia đình.[ii] Họ cũng là người phải đầu tư nhiều thời giờ nhất vào công việc của gia đình, từ việc nội trợ, đến việc chăn nuôi, trồng trọt. Điều tra cho thấy trẻ em gái phải gánh nhiều trách nhiệm trong gia đình hơn trẻ em trai, và còn tiếp diễn trong tuổi trưởng thành. Việt Nam chủ yếu có nền kinh tế nông nghiệp, mức đô thị hoá hiện nay chỉ đạt được 23%. Áp lực đối với việc sản xuất nông nghiệp ngày càng gia tăng làm cho trách nhiệm của người phụ nữ nặng nề hơn. Tuy nhiên, nghề nông thường quá vất vả và không đủ trang trải cho đời sống vật chất khiến họ phải tìm vào những môi trường làm việc khác để phụ giúp gia đình. Nhiều người quyết định di cư vào thành phố để tìm việc làm. Nhưng trong bối cảnh mới mà người phụ nữ Việt Nam phải lăn lộn để kiếm tiền, họ rất dễ rơi vào những tình trạng nằm ngoài khả năng kiểm soát của mình.

Thị trường buôn bán phụ nữ, trẻ em

Trên thế giới hiện nay chưa có một giải thích thống nhất về vấn đề buôn bán phụ nữ, trẻ em, và ngay cả ở Việt Nam cũng gặp phải sự mơ hồ trong từ ngữ và nhận thức. Nhiều người không rõ việc buôn bán phụ nữ, trẻ em được áp dụng vào những trường hợp nào do tệ nạn đa dạng gồm nhiều khía cạnh và tình huống. Có nhiều trường hợp vẫn có thể được xem như là buôn bán phụ nữ, trẻ em nhưng không liên quan đến việc xuất cảnh bất hợp pháp, ví dụ như một số trường hợp phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan hay là trẻ em Việt Nam trở thành con nuôi của người ngoại quốc. Song việc buôn bán phụ nữ, trẻ em không chỉ liên quan đến việc mãi dâm, nhưng rất nhiều trường hợp bị lừa vào các công việc lao động nặng nề, ép làm vợ cho một cá nhân hoặc tập thể, ép đi ăn xin…

Theo tổ chức Cấm Buôn Bán, Khai Thác Phim Ảnh Đồi Truỵ, và Buôn Bán Thiếu Nhi vào Đường Mãi dâm (ECPAT), việc buôn bán bao gồm tất cả các hành động săn người và chuyên chở họ trong phạm vi biên giới hay xuyên biên giới, có sử dụng những mưu kế lừa đảo, ép buộc, hay bạo lực, có liên quan đến gian lận hay làm việc trả nợ. Những người này bị rơi vào hoàn cảnh bị lợi dụng, bóc lột như bị ép vào công việc mãi dâm, làm việc trong hoàn cảnh như bị nô lệ, bị đánh đập hay những hành động thô bạo khác, phải làm việc nặng nhọc trong các xưởng hay trong các gia đình. Năm 2000, LHQ cũng đã đưa ra một giải thích tương tự như những điều vừa nêu trên.
Rất khó có thể khẳng định chính xác số phụ nữ, trẻ em Việt Nam bị bán ra nước ngoài hiện nay vì có nhiều lý do. Thứ nhất là phương pháp thu gom số liệu còn có nhiều khúc mắc dẫn đến sự thiếu rõ ràng cũng như do nhiều nạn nhân không dám trình diện và báo cáo về những gì đã xảy ra với họ. Ở đây có nhiều lý do, một phần do thái độ thiếu thông cảm trong xã hội đối với những người mãi dâm, cũng như đối với nạn nhân khi họ báo cáo về các trường hợp liên quan đến việc xâm phạm tình dục. Khi chính quyền địa phương phát hiện những đối tượng, họ thường bị đối xử như những người di cư sinh sống và hành nghề bất hợp pháp chứ không phải là nạn nhân đáng thương của nạn buôn người. Ví dụ, điều 29 trong bộ luật chống tệ nạn buôn người của Campuchia chỉ định rằng: “Bất cứ ngoại kiều nào vào vương quốc Campuchia bất hợp pháp bằng cách lén lút hay bị lừa đảo hay bất cứ cách thức nào trái ngược với những điều trong luật này, sẽ bị phạt 3-6 tháng tù, trước khi bị trục xuất”. Ngoài ra, các nạn nhân còn e ngại bị những người buôn bán trả thù, hay cảm thấy xấu hổ nếu bị gia đình hay người thân tìm ra sự thật về mình.
Phải thừa nhận rằng việc buôn bán nguời diễn ra trên diện rộng trong nước cũng như xuyên biên giới, trong phạm vi bài này, người viết chỉ đề cập đến nạn buôn người xuyên biên giới, đặc biệt để khai thác tình dục. Đây là một “công nghệ” siêu lợi nhuận vượt trên việc buôn bán ma tuý, hàng năm mức thu lên tới 7-12 tỷ đô-la Mỹ theo ước tính của chính phủ Hoa Kỳ.
Riêng ở Việt Nam, năm 1997, một thống kê cho thấy trên 70% những phụ nữ, trẻ em bị bán là bị đưa qua các nước Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, và Hồng Kông.[iii] Từ năm 1991 đến 2001, công an các tỉnh, thành phố đã phát hiện 2.260 vụ, bắt giữ 3.780 đối tượng phạm tội. Chỉ riêng 7 tỉnh, thành phố Lào Cai, Lạng Sơn, Hà Giang, Quảng Ninh, Bắc Giang, Hải Phòng, Thanh Hoá, cục cảnh sát hình sự sau một cuộc điều tra cho biết từ năm 1999 đến 2002, có 215 vụ bị phát hiện liên quan đến 344 đối tượng phạm tội. Có 796 phụ nữ, trẻ em bị lừa bán sang Trung Quốc, trong đó có 129 em dưới 18 tuổi. Theo ông Nguyễn Mạnh Tề, Cục phó Cục Cảnh sát hình sự, do Việt Nam có chính sách pháp luật cho phép người nước ngoài nhận con nuôi Việt, nhiều cá nhân, tổ chức đã cấu kết với các đối tượng môi giới trong nước để thu gom trẻ em, hợp thức hoá các thủ tục để trục lợi. Hàng trăm trẻ em đã bị bán cho người nước ngoài thuộc các nước Mỹ, Anh, Pháp, Canada, Thuỵ Sĩ, Bĩ…phần lớn là trẻ mới sinh, bị cha mẹ bỏ rơi ở bệnh viện, hoặc các trẻ con sinh ở nông thôn có hoàn cảnh rất khó khăn, cha mẹ không đủ khả năng nuôi dưỡng.[iv] Chỉ riêng năm 2002, theo báo cáo của tổng cục cảnh sát thuộc Bộ Công an cho thấy 1.088 người bị bán đi các nơi, trong đó 98% là phụ nữ, em gái; phần còn lại đa số là các em trai dưới 10 tuổi. Kết quả của khảo sát của bộ công an trên 16 tỉnh, thành phố trọng điểm cho thấy năm 2003 có đến gần 1.800 phụ nữ, trẻ em bị bán ra nước ngoài. Trong số đó, chỉ có 870 nạn nhân trở về. Những địa phương có phụ nữ, trẻ em bị lừa bán nhiều nhất là Thanh Hoá (473 người), An Giang (350 người), Nghệ An (180 người), Tây Ninh (116 người).[v] Trong số nạn nhân này, 80% có tuổi trên 18 và có 11 em chưa đầy 10 tuổi. Số liệu này không bao gồm tất cả các cuộc hôn nhân “hợp pháp” với đàn ông Đài Loan, tuy nhiên có nhiều nhận xét cho rằng vấn đề đó có nhiều yếu tố mang tính chất lừa đảo bán người. Song đa số các người am hiểu vấn đề cho rằng những số liệu trên còn quá khiêm tốn so với thực trạng hiện nay. Theo bà Lê Hồng Loan, Trưởng Phòng Bảo vệ trẻ em thuộc UNICEF, số lượng được báo cáo của Bộ Công an chỉ bằng 1/10 so với con số thực tế.[vi]

Nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em diễn ra theo năm tuyến chính: trong nước, bán cho Trung Quốc, Campuchia, bán sang Đài Loan dưới hình thức kết hôn với người nước ngoài, và bán sang các quốc gia Mỹ, Nhật, Pháp…dưới hình thức nhận con nuôi. Xét về Việt Nam như một nguồn cung cấp thì chúng ta thấy có thể chia ra thành hai vùng: các tỉnh, thành phố miền Bắc, và các tỉnh, thành phố miền Nam. Ở miền Bắc, các tỉnh dọc biên giới như Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Giang là những nơi những phụ nữ, trẻ em hay bị lừa bán qua Trung Quốc để làm vợ. Theo UNICEF, những người “chồng” Trung Quốc thường là dân nghèo, không ăn học, và trên 40 tuổi. Họ cũng thường mắc bệnh tật, vì vậy không dễ dàng tìm ra vợ ở nước họ, đặc biệt là trong lúc xã hội Trung Quốc đang gặp phải vấn nạn thiếu phụ nữ. Theo tổng thống kê dân số năm 2000, ở Trung Quốc nam thừa nữ thiếu, 118 nam đang khi đó chỉ có 100 nữ. Ngoài ra, các phụ nữ Việt Nam cũng bị bán qua biên giới để làm nội trợ, hoặc mãi dâm trong các quán karaoke, khách sạn. Lạng Sơn có đến năm huyện chạy dọc biên giới Trung Quốc kéo dài 253 km trong khi Quảng Ninh có biên giới giáp Trung Quốc kéo dài 170 km. Đến nay, không ai biết chính xác bao nhiêu phụ nữ, trẻ em đã bị lừa bán qua Trung Quốc. Nhưng cũng như những nơi khác, nạn nhân của sự lừa đảo thuộc thành phần nghèo, ít hay không có ăn học, và không biết gì về hoàn cảnh sống ở Trung Quốc. Một số di cư đến các tỉnh gần biên giới tìm việc làm và sau đó là bị giới buôn người lừa đảo với những lời hứa hẹn có công việc kiếm ra nhiều tiền ở Trung Quốc. Vì điều kiện vào Trung Quốc dễ dàng, khoảng cách không xa, và vì lòng mong muốn thoát khỏi cảnh nghèo nàn, họ dễ dàng bi mắc bẫy của giới buôn người. Một khi đã rơi vào cảnh bị bán, giấy tờ của họ cũng bị người mua giam giữ; họ không còn cách nào trở về và buộc phải trở nên người nô lệ trên đất khách quê người.
Miền Nam, các nạn nhân đa số đến từ các vùng đồng bằng sông Cửu Long và thường bị lừa bán qua Campuchia và các nước lân cận. Đa số các nạn nhân bị ép vào nghề mãi dâm, và một điều đáng chú ý là một số lớn trong các nạn nhân là các em gái chưa đến tuổi thành niên. Có những em bị bắt nhiều khi chỉ mới 8 hoặc 9 tuổi. Những năm gần đây, con số các phụ nữ từ các tỉnh phía Nam lấy chồng Đài Loan ngày càng tăng – trong đó đa số mang tính chất thương mại thông qua dịch vụ môi giới hôn nhân, và không ít trường hợp bị lừa đảo, kết hôn giả, bị bán lại nhiều lần và bị khai thác tình dục. Theo đại diện Văn phòng Kinh tế và Văn hoá Đài Bắc ở TP.HCM ông Ngô Kiến Quốc, hiện nay ở Đài Loan có gần 80.000 cô dâu Việt Nam. Dự tính khoảng hai năm nữa, con số này sẽ lên tới khoảng 100.000.[vii] Thời gian qua, đã có khoảng 20% các cuộc hôn nhân phải ly hôn.[viii] Ngoài các đàn ông Đài Loan còn có đàn ông người Singapore và Hàn Quốc cũng tìm đến Việt Nam để lấy vợ. Tháng 10, 2004, tờ báo Strait Times đưa tin rằng với một số tiền trên 10.000 đô, qua sắp đặt của môi giới, một người đàn ông Singapore có thể đến Việt Nam và chọn cho mình một cô gái làm vợ trong vòng bốn tiếng đồng hồ. Theo thống kê mới nhất thì ở Hàn Quốc, số cô dâu Việt Nam năm 2003 có 1.403 người, xếp thứ hai sau Trung Quốc (13.373).[ix]

Hiện nay phụ nữ, trẻ em Việt Nam bị bán tới nhiều nơi, nhưng phổ biến nhất là đến Campuchia và Trung Quốc. Có nhiều ước tính khác nhau tuỳ theo tổ chức thi hành việc quan sát. Tuy nhiên, theo đánh giá của UNICEF, Campuchia có khoảng 45.000 gái mãi dâm. Riêng người Việt Nam tại Campuchia có khoảng 5.000 phụ nữ, trẻ em, trong đó đến 30% ở độ tuổi vị thành niên. Tại khu “đèn đỏ” nổi tiếng ở làng Svaypak (Phnôm Pênh), có tới gần 20 nhà chứa với trên 300 phụ nữ, trẻ em gái Việt Nam hành nghề – phần lớn dưới 18 tuổi.[x] Lên mạng, chúng ta có thể tìm thấy những dịch vụ du lịch tổ chức đi đến đây để vui chơi thoả thích. Một trang web trên mạng tuyên bố "giá hiện nay cho một cuộc chơi ngắn là 5 đô, qua đêm là 20 đô, nhưng các cô gái thường đòi thêm. Ở Svay Pak, bạn có thể kiểm tra ‘hàng’ trước khi mua".
Tệ nạn buôn người qua biên giới là một hậu quả trực tiếp của sự nghèo khổ của các gia đình Việt Nam. Trong khi đổi mới đã giúp cho các thành phần có điều kiện trở nên giàu có, thì những người vốn đã nghèo khổ vì không có khả năng nắm lấy những cơ hội đổi mới, thì lại trở nên nghèo hơn. Nhà nước đã chưa thực hiện tốt chính sách xoá đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm cho người dân ở các tỉnh, và các vùng sâu vùng xa. Vì vậy mà lời hứa hẹn của giới buôn người trở nên như mật ngọt rót vào tai, đặc biệt là lúc những lời dụ dỗ đến từ những người thân quen, xóm làng. Vô số các phụ nữ, trẻ em bị lừa đảo không bởi tin tưởng vào lời dụ dỗ của người xa lạ mà chính những người cùng làng cùng xóm. Tháng 6, năm 2002 Nguyễn Thị Hoàng Yến và đồng bọn đã lừa được 18 cô gái Miền Tây và bán cho một phụ nữ ở Campuchia với giá 1,5 triệu/người. Trong 18 em gái này, ba nạn nhân đầu tiên chính là các em ruột của Yến. Tất cả những nạn nhân của Yến đều tưởng rằng mình sẽ được giới thiệu đến nơi có việc làm ở TP với lương 6-10 triệu/tháng. Sau khi đường dây buôn nô lệ tình dục của Yến bị công an phát hiện, thị đã bị TAND tỉnh Vĩnh Long phạt 30 năm tù.[xi]

Có những em gái bị bán với giá vài trăm đô. Tuy nhiên, có nhiều người còn bị bán với giá “bèo” hơn những nạn nhân của Yến nữa. Tháng 9, năm 2002, Trần Thị Hương đã dụ bé H. (sinh năm 1988) đi bán cà phê ở Phan Rang với mức lương 700.000 sau khi ăn ở. Hai em khác cũng đã bị lừa đảo với thủ đoạn trên. Kết cuộc, cả ba em đã bị bán qua Campuchia cho bà Ngọc, chủ nhà thổ, với giá 30 đô/người. Sau vụ này, Hương còn tiếp tục dụ dỗ và bán những em khác, trong đó có một em bị bệnh thần kinh. Mỗi người cũng được trả 30 đô.[xii]

Phụ nữ, trẻ em bán qua Trung Quốc xem ra ‘được giá’ hơn. Tháng 7, 2001, Lê thị Anh Tuyết, 27 tuổi, bị một nhóm buôn người lừa bán với giá 2.500 nhân dân tệ (khoảng 4 triệu đồng). Sau đó hai phụ nữ khác cũng bị bọn này lừa bán với giá 4.500 nhân dân tệ.[xiii] Năm 2001, Nguyễn Thị Huệ đã bị một người đàn ông Trung Quốc mua về làm vợ với giá 3.000 nhân dân tệ. Sau khi Huệ bị bán, bọn buôn người tiếp tục lừa con gái của chị qua Trung Quốc chơi với mẹ và cùng làm ăn. Rốt cuộc cô con gái ngây thơ này cũng đã bị bán ở Đông Hưng, Trung Quốc với giá 3.000 nhân dân tệ.[xiv] Số liệu cho thấy, thường thì giá tiền cao nhất cho một người là 3.000 nhân dân tệ; có nhiều nạn nhân khác bị bán với giá chỉ 1.000 nhân dân tệ.

Thủ đoạn tinh vi
Tệ nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới đã trở thành một vấn đề nhức nhối mà chưa có giải pháp hiệu quả. Thủ đoạn và tổ chức ngày càng tinh vi bao gồm nhiều khía cạnh và có sự phối hợp giữa các nhân vật trong đường dây. Và đường dây buôn người cung ứng cho nhiều mục đích khác nhau. Thông thường việc mãi dâm sẽ liên quan đến nhiều người và nhiều thủ đoạn hơn những công việc khác. Tổng hợp các trường hợp cho thấy một người bị lừa từ nơi sinh sống đến điểm bị cưỡng bức làm việc qua một tiến trình như sau.
Trong điều kiện chật vật, nghèo khổ của cá nhân và gia đình, các cô gái dễ dàng nghe lời giới thiệu đầy hứa hẹn về đồng lương từ một người thân hay đồng hương, nhưng ít có ai ngờ rằng người thân đáng tin cậy ấy chính là một mắt xích trong đường dây buôn người. Bởi lẽ họ không phải là người chuyên nghiệp, và công việc của họ không mấy mạo hiểm, nên người giới thiệu này sẽ chỉ nhận được phần ăn chia rất nhỏ. Các nạn nhân sẽ được giới thiệu tới một mối giúp phân phối việc làm. Người mối này cũng có thể là người quen hay đồng hương. Họ thường có việc làm ăn xuyên biên giới và nhiều khi có 2 quốc tịch hay giấy phép để cư trú ở hai quốc gia. Những người này cũng có thể đã từng làm các công việc mà các nạn nhân của họ sẽ phải làm. Sau khi gặp “hàng”, người mối sẽ thông báo công việc cho cô ta ở một nơi khác và họ sẽ đưa cô đến nơi đó. Đến lúc này thì mọi sự vẫn tốt đẹp và người con gái nhà quê không hề nghi ngờ có điều gì bất ổn.

Trên chuyến đi xuyên biên giới, các cô gái được hướng dẫn bởi những nhân vật phụ trách hành trình. Ở đây muốn nói về những người có trách nhiệm đưa các nạn nhân đến biên giới và những người đưa họ từ biên giới đến nơi làm việc. Những người này quan trọng vì họ biết cách đưa các nạn nhân đi mà không bị phát hiện. Khi đến nơi thì các cô bị sang tay cho một ổ chứa, khách sạn, quán café, hay một cá nhân nào đó. Khi ấy cô ta mới bắt đầu nhận ra dấu hiệu không may và hiểu được phần nào sự nguy hiểm đang chờ đón mình. Nhưng lúc đó thì đã quá trễ, vì cô ta đang một thân một mình trên đất khách quê người; giấy tờ của cô đã bị người mua thu giữ và cô trở thành một người hoàn toàn lệ thuộc vào sự điều khiển của họ.

Thường thì không cần nhiều thời gian để cho cô gái nhận ra công việc thật sự của mình là gì. Ngoài việc không có giấy tờ hợp pháp để trở về nước, ở nơi làm việc, cô ta luôn nằm dưới sự điều khiển và quản lý của người canh gác; vì vậy việc trốn thoát là khó có thể. Ở các ổ mãi dâm, người canh gác giới thiệu các cô gái đến khách, thương lượng giá cả, sắp xếp nơi ăn ở và áp dụng cách trừng trị khắc nghiệt nếu các cô không chịu hợp tác.

Ngoài các người quen, các trường hợp bị bán đứng bởi chính cha mẹ cũng không ít. Ở Campuchia, nhiều em bé bị cha mẹ đưa đến tận nơi để bán cho những tú bà. Một cô gái Việt Nam 16 tuổi bị mẹ bán trinh năm 1994 kể: Thời gian ở Campuchia tìm người bán trinh, mỗi ngày hai mẹ con phải đi nhiều nơi để “chào hàng”. Khi đến một cửa tiệm của một phụ nữ người Việt khoảng 50 tuổi, bà ta đã làm mối để bán trinh cho một người ngoại quốc với giá 500 đô. Sau khi bán xong, số tiền mà em nhận được từ bà ta là 200 đô.[xv] Số tiền nhỏ nhoi trên chắc hẳn sẽ được gia đình của em sử dụng cho việc hoàn trả một số nợ nào đó; hầu như tất cả các em bị cha mẹ bán hay khuyến khích đi vào công việc mãi dâm là do sự túng thiếu, nợ nần của gia đình. Ngoài ra, theo chuyên gia Vincent Dehon, giám đốc kế hoạch của tổ chức Oxfam tại Việt Nam, đa số trường hợp bán con ra nước ngoài bằng con đường di dân đều do quyết định của cha mẹ.[xvi] Thường thì người con trong gia đình phải hy sinh đầu tiên là con gái lớn. Điều tra cho thấy trong việc tìm kiếm những đầu mối trung gian để gả con ra nước ngoài không khó, có đến 70% trường hợp người dẫn mối là một người quen biết với gia đình. Tuy vậy gia đình thường nhận được một số tiền khá khiêm tốn trong khi người mối có thể giao người con đó lại cho người nước ngoài với giá lên đến 10.000 đô.
Để cho việc chuyên chở các nạn nhân đến nơi hành nghề êm xuôi cũng như để duy trì và phát triển công việc làm ăn, các lái buôn cần đến sự cộng tác ngầm của cán bộ nhà nước, công an. Sự cộng tác của nhiều cán bộ đã tạo điều kiện cho việc đưa người qua biên giới dễ dàng hơn và góp phần gia tăng nạn buôn nguời. Tuy không phải đầu tư nhiều nhưng họ lại tìm được nhiều lợi nhuận qua sự cộng tác bằng cách trở nên những tay sai của các con buôn, giúp họ bắt giữ lại các nạn nhân đang cố tìm cách trốn thoát. Trong những nỗ lực phá vỡ các đường dây hoặc tấn công các ổ chứa, có nhiều trường hợp không thành công vì chính những cán bộ công an đã báo cho các đối tượng trước khi sự việc diễn ra. Một số cán bộ còn trực tiếp tham gia vào hành vi buôn bán phụ nữ, trẻ em. Nhiều bản phúc trình đã khẳng định rằng tại Campuchia có nhiều cán bộ tham gia vào việc buôn bán người, hoặc ít nhất là sẵn sàng làm lơ để công việc buôn bán được thuận lợi.[xvii] Tại Việt Nam, năm 2000, Toà án Nhân dân tỉnh Ninh Bình đã kết án 12 đối tượng trong một đường dây buôn trẻ em. Đứng đầu đường dây này là Vũ Tiến Mạnh, một cán bộ cao cấp trong ngành tư pháp của tỉnh. Các đối tượng trong đường dây này đã làm giấy tờ lậu để bán 174 trẻ em cho người nước ngoài nhận làm con nuôi từ năm 1992 đến 1998.[xviii] Có nhiều du khách nước ngoài đến khu đèn đỏ Svay Pak cho rằng họ không mấy lo sợ bị công an bắt vì giới thi hành pháp luật đã được các tú bà tú ông “biết điều” trước rồi. Thỉnh thoảng nếu tiền bảo kê không giao đúng lúc, hay là nhà nước phải dùng một người nào đó để làm gương thì việc điều tra, tấn công mới xảy ra. Cuối tháng 8, năm 2002, do có một phái đoàn Liên Hiệp Quốc đến Campuchia nên chính quyền Campuchia đã chỉ đạo ngành công an kiểm soát và bắt một số đối tượng để lấy lòng khách, nhưng không ai dám nghĩ rằng chiến dịch sẽ duy trì lâu dài.[xix]


Du lịch tình dục

Đầu năm 2004, cảnh sát Campuchia cứu được 10 em gái người Việt khỏi một ổ chứa ở Phnôm Pênh. Cảnh sát cũng bắt được ‘mẹ mìn’ là một phụ nữ người Việt 29 tuổi tên Hồng. Trong 10 em được cứu, chỉ có hai em là 18 tuổi. Tám em còn lại đều dưới 15 tuổi. Đây là vụ lột mặt nạ lớn sau khi đã tấn công khu đèn đỏ Svay Pak vào tháng 3 năm 2003. Trong chiến dịch này đã cứu được 36 em gái, trong đó có những em chỉ 5 tuổi.
[xx] Theo một bài báo trong tờ UN Chronicle của LHQ, trong chiến dịch chống mãi dâm vào tháng giêng, 2003, khu này có đến 900 em gái người Việt hành nghề mãi dâm đến từ các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long.[xxi]
Người ta có thể khám phá ra điều này khi đi đến khu đèn đỏ Svay Pak, cách Phnôm Pênh 11 km trên một con đường đất. Theo cư dân trong khu vực Svay Pak, xã này được thành lập cách nay hơn 15 năm, khi chính quyền di dời nhiều người dân Việt từ khu chợ Nhỏ cách thủ đô chừng 6km để đi định cư tại Svay Pak. Từ một nơi định cư cho người Việt ở xứ chùa tháp, từ từ đã bị biến thành khu du lịch khai thác tình dục trẻ em.[xxii] Nhà báo người Anh Daniel Foggo đã kể lại kinh nghiệm của mình khi bước chân tới đây: Ở đây chỉ có một điều mà lôi cuốn du khách là hai bên đường toàn là những ổ chứa, trong đó những em gái chưa đến tuổi thành niên. Tới đây bọn làm cò, có người chỉ 12 tuổi, đi chào hàng không khác gì như đi bán kem. Họ chạy theo những du khách với những lời mời mọc: “Ông muốn gái trẻ không, bé gái không?”. “Ở đây giống như tiệm bán kẹo vậy. Ông không thích đứa này thì chọn đứa khác”.[xxiii] Nhưng lời chào hàng cũng có vẻ dư thừa vì hầu như du khách nào đến đây cũng chỉ có một mục đích duy nhất là thoả mãn nhu cầu dâm dục của họ với những bé gái. Chỉ trừ khi du khách vẫn im lặng trước lời mời mọc của họ thì họ mới giới thiệu các em trai.
Ngoài những nhân vật buôn bán phụ nữ trẻ em mà chúng tôi đã đề cập tới, một thành phần quan trọng góp phần cho tệ nạn này ngày càng gia tăng ở Campuchia cũng như Thái Lan là những du khách đến đây để làm những điều không mấy dễ dàng tại đất nước của họ do sự kiểm soát chặt chẽ của luật pháp. Ở các quốc gia như Pháp và Anh, việc công dân đi ra nước ngoài với mục đích tình dục với trẻ em là bất hợp pháp và sẽ bị khởi tố nếu bị phát hiện. Nhưng luật pháp đã không ngăn cản được, các đối tượng sẵn sàng vượt hàng ngàn dặm để tìm đến các bé gái để thoả mãn nhu cầu dâm dục. Ngành du lịch Thái Lan hái được 10 tỷ đô mỗi năm, chiếm 5% của GDP nước này, trong đó có một phần đáng kể từ ngành du lịch tình dục. Tại Campuchia, những năm gần đây, ngành du lịch đã xếp hàng đầu trong những ngành phát triển nhanh nhất. Ở đây, luật pháp cho phép quan hệ tình dục với đối tượng không dưới 15 tuổi. Tuy đó là một tuổi còn rất trẻ so với lứa tuổi cho phép ở Tây Phương là 18, nhưng nhiều du khách vẫn thích hành lạc với các em gái trẻ hơn. Và như thế tuổi của các em gái cứ thế trẻ dần để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, có khi có em chỉ mới 7 tuổi cũng đã bị bán.
Để phát triển, ngành du lịch tình dục và những du khách tham gia thường lợi dụng tình trạng mà có du khách gọi là môi trường còn “hỗn loạn” vì kinh tế nghèo nàn, luật pháp lỏng lẻo, hệ thống chính trị thiếu ổn định, và tệ nạn tham nhũng trong giới chức quyền tràn lan. Trong tình trạng đó, việc mua dâm với trẻ em diễn ra dễ dàng và ít khi bị kiểm soát. Nếu bị bắt, vài trăm đô là đủ để phóng thích. Vì vậy, mặc dầu ngành công an Campuchia ra tay tấn công khu đèn đỏ Svay Pak đầu năm 2003, nhưng bây giờ du khách tìm đến địa điểm này vẫn nhận được những lời chào hàng từ các bọn ma cô. Và Campuchia nói chung vẫn là thiên đường cho các du khách có nhu cầu “chơi” (thuật ngữ mà chính họ sử dụng) với trẻ con. Tháng tư, năm 2004, chương trình thời sự nổi tiếng Dateline của hảng truyền hình NBC ở Mỹ đã thực hiện một chuyên đề về tình trạng buôn bán phụ nữ, trẻ em ở Campuchia. Lời mở đầu của bài phóng sự như sau: “Đây là một điểm du lịch kỳ lạ, với những thành phố cổ, những màu sắc rực rỡ, những ngôi chùa huyền thoại, với vẻ đẹp tuyệt diệu – và những tội phạm kinh hoàng đang diễn ra đàng sau những cánh cửa đóng kín. Trẻ em, có em chỉ mới 5 tuổi, đang bị bán làm nô lệ cho nghề mãi dâm. Đây là một bí mật xấu hổ đã gây được sự chú ý của thế giới và Nhà Trắng.”
[xxiv]
Cũng trong chương trình này, phóng viên Chris Hansen chia sẻ cảm tưởng như sau khi ông ta cùng nguời cầm máy quay Mitchell Wagenberg thực hiện cuộc điều tra bằng cách mạo diện hai khách hàng đi vào một ổ chứa và phải đối diện với các bé gái:

Tôi ngồi đối diện với một em gái trên chiếc nệm lệp xệp của nhà chứa, em cho tôi hay em 9 tuổi. Em nói với tôi ‘yum yum’ để ra hiệu hành động phục vụ bằng miệng. Để làm rõ ý hơn, em bé 10 tuổi đứng bên cạnh dùng tay và miệng mình để biểu diễn việc sẽ làm. Thật vậy, chúng mời mọc tôi bằng những nụ cười. Chúng thông thạo cách làm và bảo chúng tôi rằng nếu chúng tôi không hài lòng thì khỏi phải trả tiền. Tôi đã từng thực hiện phóng sự về các vấn đề vận chuyển ma tuý, mua bán vũ khí, khủng bố, tham nhũng chính trị, và các tổ chức tội phạm. Tôi đã rơi vào một số tình huống khó xử. Nhưng không gì so sánh được với lúc đối diện các em bé này, đặc biệt là lúc chúng vượt qua khoảng cách mong manh và sờ vào vùng nhạy cảm của chúng tôi với những bàn tay nhỏ xíu của chúng. Tôi và Mitchell Wagenberg nhìn nhau với ánh mắt kinh hoàng, không thể tin nổi chuyện vừa xảy ra. Chúng tôi phải nghĩ ra bước tiếp theo để các em bé và tú bà của chúng phải nghĩ rằng chúng tôi là những người đi săn lùng tình dục với các bé gái. Nhưng lúc đó tôi chỉ muốn ẵm các em lên và đưa chúng ra khỏi cơn ác mộng này. Tôi nhìn các em cười và bỗng nghĩ đến những đứa con gái của tôi. Tôi có cảm giác muốn bật khóc.
[xxv]

Một điều cần nhấn mạnh ở đây là du lịch tình dục chỉ là bề nổi của vấn đề. Không chỉ người nước ngoài đến Campuchia, Thái Lan để mua dâm. Thực ra, đa số khách hàng của các ổ chứa là người địa phương, trong đó không ít là thành phần cán bộ nhà nước. Tại Thái Lan, nghiên cứu cho thấy đa số đàn ông quan hệ tình dục lần đầu tiên là với gái mãi dâm, có tới 95% đàn ông trên 21 tuổi đã có hành vi mua dâm.
[xxvi] Trong quân đội nước này, một khảo sát cho thấy trong thời gian 6 tháng ngay trước khi thực hiện cuộc thăm dò có đến 81% thành viên có hành vi mua dâm.[xxvii] Một khảo sát khác cho hay 73% thành viên quân đội quan hệ tình dục lần đầu tiên là với gái mãi dâm, và 97% thành viên thường xuyên có hành động mua dâm.[xxviii] Tuy tại Việt Nam không có những thống kê chính xác, nhưng quan sát cho thấy vấn đề tương tự cũng đang diễn ra đối với tệ nạn này. Vụ án xảy ra với nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Thể dục Thể thao bị phạt 8 năm tù với tội hiếp dâm trẻ em là một sự việc khiến dư luận xôn xao: có phải đây là một trường hợp cá biệt hay là một điển hình nói lên những gì đang xảy ra trong giới lắm quyền lắm tiền hay không? Theo một khảo sát năm 1998, có đến 2/3 cán bộ nhà nước mua dâm ở các ổ chứa, tụ điểm massage, karaoke…với tiền lấy từ công quỹ.[xxix] Trong một bài báo của tạp chí tiếng Anh Vietnam Investment Review, bà Nguyễn Thị Huệ, nguyên chủ nhiệm của Uỷ ban Phòng chống tệ nạn của Bộ Lao động, Thương binh, Xã hội đã phát biểu rằng, tình trạng mãi dâm hiện nay rất nghiêm trọng và được tổ chức cách tinh vi trên phạm vi cả nước, một phần là để phục vụ các cán bộ nhà nước. Theo bà, trong số khách hàng của những tụ điểm bia ôm có đến 70-80% là thành phần cán bộ. Bà Huệ cho rằng đây là những cán bộ thiếu đạo đức vì họ phải ăn cắp tiền nhà nước để giải trí đồi truỵ. Với số cán bộ quan chức tham gia vào tệ nạn mãi dâm đông đảo như vậy thì làm sao họ có thể có đủ nhiệt huyết để bài trừ chính vấn đề mà họ phải huỷ diệt?[xxx] Trong những năm qua, chính quyền ở cấp trung ương lẫn tỉnh, thành đã có những quy định kỷ luật những cán bộ, công nhân viên chức đi hát karaoke ôm, bia ôm, hay mua dâm ở những tụ điểm massage, nhưng tình trạng vẫn đâu lại vào đó. Tháng 10, năm 2004, Thủ Tướng Phan Văn Khải lại phải ký thêm một nghị định, trong đó, cán bộ, công chức nhà nước hoặc người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân vi phạm luật lệ phòng, chống mãi dâm sẽ bị phạt tiền, bị thông báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý, xử lý kỷ luật.[xxxi]

Hậu quả

Hậu quả gây nên do tệ nạn buôn người và mãi dâm ảnh hưởng đến các nạn nhân cũng như toàn xã hội. Trước tiên, những người trực tiếp gánh chịu hậu quả là các nạn nhân, đặc biệt là những nạn nhân bị ép vào nghề mãi dâm. Mỗi ngày các cô gái phải phục vụ nhiều người khách, có lúc trên 10 khách. Hầu hết các cô gái cũng như những người khách không sử dụng các phương pháp ngăn ngừa những căn bệnh lây nhiễm dẫn đến tình trạng lây lan HIV và nhiều căn bệnh khác, trong đó có những vấn đề liên quan đến việc sinh sản của phụ nữ. Campuchia là nơi có tỷ số các cô gái mãi dâm bị nhiễm HIV cao nhất vùng ĐNA. Năm 1997, TTCN cho hay trong 50.000 cô gái mãi dâm ở đây, 40% đã bị nhiễm HIV.
[xxxii] Nhiều tụ điểm mãi dâm buộc các cô phải quan hệ với khách mặc dù họ không đồng ý sử dụng phương pháp bảo vệ. Và họ cũng không được dạy cách thuyết phục các người khách sử dụng phương pháp ngừa bệnh. Nhiều cô gái do bắt đầu quan hệ tình dục sớm đã ảnh hưởng đến sự phát triển của các bộ phận như ngực, tử cung... Hành nghề mãi dâm, các cô gái không thể tránh khỏi những trường hợp có thai ngoài ý muốn. Phá thai là điều tất nhiên trong các trường hợp trên; tuy nhiên, đây không phải là chuyện đơn giản và không ít vụ phá thai đã gây thiệt mạng hay nguy hại cho sức khoẻ của các cô gái này.
Những hậu quả về sức khoẻ không chỉ do tính chất của công việc mà còn do môi trường các phụ nữ, trẻ em phải làm việc. Tất cả các nghiên cứu đều cho thấy ở mọi nơi, các nạn nhân luôn bị lợi dụng, đe dọa và đối xử thô bạo. Đối với nghề mãi dâm, ở các ổ chứa, những cô gái thường ngồi thành hàng, mỗi người mang một bảng số cho khách nhìn và lựa chọn. Có nơi thì mỗi cô có một phòng riêng để phục vụ khách, những nơi khác 3-4 người phải sử dụng một phòng. Thường thì những phòng này không có cửa sổ, tối tăm, thiếu vệ sinh và chỉ có một chiếc giường cũ kỹ. Ở Campuchia cũng như ở Thái Lan, những ổ chứa, nhà trọ thường phục vụ 24 trên 24. Đa số các gã đàn ông vào mua dâm là những người uống nhiều rượu, hay xay xỉn và có nhiều hành động và lời nói thô tục với các cô gái. Không ít các cô gái khi họ từ chối quan hệ với khách vì không có bao cao su thì bị đánh đập và cuối cùng cũng đành lòng phải chiều theo nhu cầu của khách. Các cô gái phục vụ khách ngay ở trong nhà chứa có phần an toàn hơn, nhưng đối với những cô đi khách bên ngoài, có nguy cơ bị đánh đập, cướp giật, thậm chí bị hiếp dâm tập thể rất cao.
Vì nghề mãi dâm là một điều mà xã hội chê bai, những nạn nhân bị ép vào những công việc này thường mang trong mình nhiều mặc cảm sâu xa cũng như những bức xúc và hờn oán. Tuy nhiên, họ thường không dám đối diện với những cảm xúc của mình, và một cách vô ý thức tìm cách đè nén những cảm xúc đó lại trong lòng. Đa số chỉ muốn che dấu quá khứ, tránh bàn thảo về những gì đã xảy ra, hay xa lánh cộng đồng, xã hội. Sau khi thoát khỏi nghề mãi dâm, nhiều cô gái có ý muốn lập gia đình, tìm cách chính trực kiếm tiền, nhưng những mặc cảm và sự gièm pha của những người chung quanh làm cho họ khó có một đời sống hạnh phúc. Những cuộc hôn nhân của họ dễ dàng kết thúc cách nhanh chóng. Những vết thương trong tâm hồn khiến cho nhiều cô gái có những cá tính quá hung hăng, hay quá rụt rè, bi quan. Họ hay rơi vào tình trạng nghiện ma túy hay cờ bạc. Nhiều người buộc phải luôn nói dối với những người chung quanh về nghề nghiệp của mình, và không thể tin tưởng vào người khác, đặc biệt là đối với nam giới.
Các nạn nhân của tệ nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em vốn đã là những người thiếu ăn học, nhưng trong môi trường làm việc này thì họ khó có thể phát triển trí óc hoặc có cơ hội để đi học hay trau dồi kiến thức. Vì thế, một khi đã rơi vào đây, sự phát triển trí tuệ ngừng lại. Các nạn nhân không học được nghề nào khác, và về sau nếu thoát khỏi nơi này thì họ cũng không biết sẽ phải làm gì để sinh sống. Chính vì thế mà chúng ta chứng kiến rất nhiều cô gái mãi dâm, sau khi đã được cứu khỏi các nhà chứa không bao lâu thì lại “ngựa quen đường cũ”. Khảo cứu ở tất cả các nước trong vùng cho thấy những cô gái mãi dâm có khả năng cao sẽ trở lại với nghề nếu họ không còn cách nào khác hay là đang cần tiền vì có sự cố trong gia đình. Theo ông Pierre Legros, giám đốc tổ chức phi chính phủ AFESIP, một tổ chức chuyên phụ trách công tác theo dõi, phát hiện, cứu nguy và hướng nghiệp cho những nạn nhân được cứu thoát, khoảng 40% các cô gái sau khi được cứu thoát đưa đến trung tâm để được chăm sóc, đã trở lại với đời sống mãi dâm. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất khiến một cô gái đồng ý việc mãi dâm là vì số nợ đối với bọn buôn người quá cao. Lợi dụng sự thiếu học hành của các cô gái, bọn buôn người tính nợ trên trời mà chỉ có mãi dâm mới có thể hoàn trả được. Theo điều tra của Tổ chức Di Dân Quốc Tế (IOM) với 1.082 trường hợp phụ nữ và trẻ em bị đưa sang Trung Quốc (tính đến 1-2003), trong đó 5,5% là mù chữ và 46.6% chỉ có trình độ tiểu học.
Hậu quả của tệ nạn gây ra cho xã hội cũng không kém phần nghiêm trọng. Theo nhận xét của ông John Miller, một viên chức của cơ quan chống tệ nạn buôn người thuộc bộ ngoại giao Hoa Kỳ: “Vấn đề gây quan ngại đến cả nền an ninh quốc gia, nếu nhìn vào thực trạng buôn người và tác hại của nó đối với cả nước, từ phá vỡ gia đình, đến gây hại cho bộ máy chính quyền…Khi thấy nạn buôn người, ta sẽ nhận thức được rằng nó có thể là nguyên nhân bất ổn của cả một quốc gia”.[xxxiii] Tại Á Châu có trên 8 triệu người đã bị nhiễm HIV, là nơi nghiệm trọng nhất sau vùng Châu Phi. Riêng ở Trung Quốc, báo cáo của tổ chức Y Tế Thế giới (WHO) cho hay có đến 840.000 người bị nhiễm HIV đã được phát hiện.[xxxiv] Tổ chức UNAIDS cảnh báo rằng nếu tình trạng không được khắc phục thì đến năm 2010, nước này có thể có đến 10 triệu người bị nhiễm. Tại Campuchia, trong 13 triệu dân đã có 2,68% người tuổi từ 15-49 bị nhiễm. Đây là tỷ số cao nhất trong vùng Châu Á-Thái Bình Dương. Ở đây mỗi ngày có thêm khoảng 20 ca nhiễm được phát hiện.[xxxv] Tại Việt Nam, số người bị nhiễm HIV đã lên đến 86.000 người.[xxxvi] Tuy nhiên, nhiều chuyên gia ước lượng con số thực sự có thể lên đến 300.000.[xxxvii] HIV bị lây lan trong xã hội qua nhiều cách, trong đó có việc sử dụng chung kim để chích ma tuý. Tuy nhiên, số người bị lây nhiễm trực tiếp hay gián tiếp qua đường quan hệ với gái mãi dâm chiếm một tỷ số đáng kể ở tất cả các nơi trong vùng, góp phần vào sự khủng hoảng và thiếu an sinh trong xã hội vốn đã gặp phải nhiều thách thức trong tiến trình phát triển kính tế.
Trong khi sự ổn định và phát triển của đất nước đã là một vấn đề khó khăn, những người quan tâm đến xã hội còn băn khoăn về tinh thần của cộng đồng khi xóm giềng, bạn bè, cha mẹ sẵn sàng bán người thân của mình chỉ vì trả một món nợ hay muốn tìm ra tiền. Xã hội Việt Nam, vốn mang ảnh hưởng của Nho giáo là một văn hoá mà mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái được nâng lên như một cột trụ của xã hội, nhưng rồi cũng có lẽ do ảnh hưởng của nền nho giáo đó, chỉ đặt nặng mối quan hệ giữa cha mẹ và người con trai nên các đứa con gái được xem như những dụng cụ mà người ta có thể đem đi cầm để trả nợ khi hoàn cảnh gia đình trở nên túng thiếu. Như nhận xét của ông Andrew Bruce, trưởng phái đoàn Tổ chức Di Dân Quốc tế tại Việt Nam, "Những cô gái Việt Nam bị đưa sang Campuchia hay Trung Quốc phần lớn là do sự khuyến khích của gia đình như một cách giúp họ thoát khỏi nợ nần".[xxxviii]

Ngày càng có nhiều người nước ngoài từ phương Đông lẫn phương Tây đã bắt đầu xem Việt Nam như một nguồn cung cấp những cô gái trẻ đẹp để thoả mãn ham muốn dục vọng của họ. Họ đến đây tìm vui qua trung gian của các công ty du lịch tư nhân lẫn nhà nước, và các công ty này sẵn sàng mắt nhắm tai ngơ để thu lợi. Và họ không còn chỉ đến Việt Nam để tìm những cô gái đẹp và rẻ mà có thể tìm đến các cô gái Việt Nam ở những quốc gia lân cận. Tiến sĩ Steven Hawkins, giảng sư môn nhân chủng học tại viện Đại học Hawaii đưa ra nhận xét về văn hoá Á đông, trong đó còn có “quan niệm huyễn hoặc hay nhu cầu cổ hủ là phải gái trinh mới đem lại may mắn hay tài lộc”.[xxxix] Theo hãng Tin Nhanh Việt Nam thì trường hợp ông Lương Quốc Dũng bỏ ra một số tiền lớn để mua trinh một bé gái tại khách sạn Eden vì ông tin rằng, làm như vậy sẽ giúp ông vận may đỏ như son và lên cao như diều.[xl] Và vì vậy mới có việc đàn ông Đài Loan, Nhật, Hàn đến ĐNA để hái lộc trên thân hình của các cô gái Việt Nam. Còn có nhu cầu nhiều hơn thì họ có thể mua các cô gái Việt Nam như những món hàng để đem về xứ sở, sau khi diễn ra việc chọn lựa, thương lượng, và mặc cả. Ở Đài Loan, các cô gái Việt Nam còn được chào hàng, quảng cáo trên các kênh truyền hình,[xli] và trước những ngôi chùa.[xlii] Ở trên đường của thủ đô Seoul, Hàn Quốc, một băng-rôn quảng cáo: “Hãy cưới cô dâu Việt Nam” có kèm chú thích bằng hàng chữ nhỏ phía dưới: “Chú rể có thể là người độc thân, đã ly dị, hay khuyết tật”.[xliii] Ngày nay kinh tế Việt Nam đang trên đà thăng tiến. Hàng Việt Nam đang được giới thiệu cho toàn thế giới, trong đó có hải sản, đồ may mặc, đồ gia dụng. Nhưng có lẽ khi Nhà nước chuyển sang kinh tế thị trường thì không ai ngờ rằng một trong những "sản phẩm" mà thế giới biết đến và tìm mua không chỉ là những thứ trên nhưng còn là các phụ nữ, trẻ em ở miền quê Việt Nam.

Nỗ lực đối phó
Tệ nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em được bàn ở đây chỉ là một góc nhìn rất hẹp về một vấn đề không chỉ ảnh hưởng đến đất nước và con người Việt Nam, nhưng cả thế giới. Nỗ lực của chính quyền Việt Nam thời gian qua bao gồm việc cải tiến cách đối phó với những tổ chức ngày càng tinh vi. Trước đây, theo nhận xét của ông Vincent Dehon của tổ chức Oxfam: Việt Nam “ứng xử như không bao giờ có nạn buôn người trong nước. Không một viên chức nào muốn đề cập đến điều này bất kể họ biết rõ phụ nữ và trẻ em Việt Nam đã bị bán qua Lào, Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc”.
[xliv] Nhưng giới chức trách cũng đã phần nào nhận ra rằng đây là một vấn nạn cần sự đối phó cấp thiết. Tháng 3, 2004 các phụ nữ đại diện cho Việt Nam và Lào đã tổ chức hội thảo ở Hà Tĩnh để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, và xây dựng kế hoạch hành động. Một tháng sau, lần đầu tiên diễn ra một hội nghị giữa bộ Công an Việt Nam và Công an Trung Quốc để thảo luận về tệ nạn đang xảy ra giữa hai quốc gia. Vào tháng 6, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam và tổng hội Phụ nữ Trung Quốc cũng đã bắt đầu một chiến dịch truyền thông được tiến hành ở các trường, khu dân cư ở các tỉnh Thanh Hoá, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Nghệ An và tỉnh Quảng Tây (TQ). Những người tổ chức hy vọng rằng chiến dịch này sẽ nâng cao trí thức của cộng đồng đặc biệt là những người phụ nữ, trẻ em ở vùng biên giới. Chỉ một tháng sau, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chương trình hành động phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004-2010.
Chương trình hành động của Nhà nước nhằm tìm ra một khả năng đối phó đa dạng bao gồm những cải cách và việc thi hành các luật pháp, cứu hộ, phục hồi nhân phẩm và tái hoà nhập, ngăn chặn, tuyên truyền vận động và nâng cao nhận thức của người dân; bên cạnh đó còn nghiên cứu và xây dựng một mạng lưới hợp tác xuyên quốc gia. Tuy nhiên, nhiều tổ chức quốc tế quan sát nỗ lực của Việt Nam cho rằng các cố gắng chưa được đồng bộ và vẫn còn kém hữu hiệu. Mặc dầu Việt Nam đã có luật phạt tới 20 năm tù những đối tượng khai thác phụ nữ và trẻ em cho việc mãi dâm nhưng lại không có luật trừng trị các hình thức buôn người nhằm cưỡng bức lao động. Theo nhận xét của Andrew Bruce ở tổ chức Di Dân Quốc tế, hiện nay Việt Nam chưa có một uỷ ban phối hợp các hoạt động chống buôn bán phụ nữ là một điều làm cho quá trình đấu tranh gặp nhiều khó khăn. Theo ông, khó khăn lớn nhất là ở "thái độ của xã hội đối với những nạn nhân của hành vi buôn bán này. Ở Việt Nam họ thường bị coi là kẻ có tội chứ không phải là nạn nhân. Tôi nghĩ rằng họ nên được đối xử một cách nhân đạo sau khi sống sót từ những bạo hành, lạm dụng, bóc lột ở nước ngoài chứ không phải là đưa họ vào các trại giam để đẩy họ vào địa ngục lần nữa. Vấn đề là làm sao đưa họ hoà nhập vào cuộc sống, có công ăn việc làm ổn định và duy trì liên hệ với gia đình".[xlv]

Một phát hiện từ các cuộc điều tra có thể gây nên thái độ thiếu thông cảm trong xã hội, đó là trong các trường hợp bị lừa ra nước ngoài, rất nhiều nạn nhân là các những người không thích làm công việc vất vả nhưng lại muốn có thu nhập cao hơn, mặc dầu họ không thể hoặc không có cơ hội học hành. Có rất nhiều cô gái bị lừa với những mức lương lên đến 5-6 triệu/tháng chỉ cho công việc đi bán café ở thành phố. Tình trạng này khiến dư luận cho rằng đây là hậu quả của sự đua đòi, muốn có tiền dễ dàng mà không phải chảy mồ hôi. Dư luận này đặc biệt hướng về các cô dâu lấy chồng Đài Loan già cả, bệnh tật chỉ vì muốn thăng tiến về kinh tế. Họ sẵn sàng tham gia vào các cuộc "tuyển chọn" trong đó các cô gái phải khỏa thân để cho khách xem “hàng”. Những cô gái khác không được chọn đành phải toại nguyện với nghề bán café, bia ôm trong thành phố để trả nợ cho các môi giới đã bỏ công ra chạy chọt, giúp đỡ, giới thiệu, mặc dầu không thành. Tuy nhiên, theo các chuyên gia bảo trợ nhân quyền, nguyên do quan trọng ở đây không hẳn như nhận xét của xã hội nhưng xuất phát từ tình trạng thiếu tri thức, hiểu biết khiến cho họ dễ dàng rơi vào cái bẫy của giới buôn người. Nạn buôn người và mãi dâm phát triển gắn liền với sự nghèo khổ, nỗi tuyệt vọng, và sự thiếu hiểu biết của các nạn nhân.
Vấn đề buôn bán phụ nữ, trẻ em không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn do những yếu tố xã hội văn hoá. Xã hội Châu Á nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng ít có thiện cảm với những cô gái tham gia vào những công việc bán thân, mặc dầu đó là một sự hy sinh vì hoàn cảnh kinh tế gia đình. Song, 41% trẻ em Việt Nam trong nghề mãi dâm lại được giới thiệu vào nghề này qua người thân, xóm giềng. Trong xã hội Việt Nam, việc các thanh niên, đàn ông tham gia vào việc mua dâm đã trở nên chuyện bình thường. Thời gian qua có nhiều dư luận trong báo chí, có những tiếng nói trong chính quyền cho rằng nhiều tệ nạn ở Việt Nam là nhằm đáp ứng những nhu cầu đồi bại của người nước ngoài hay giới Việt Kiều về nước lợi dụng giá rẻ để chơi gái đẹp. Nhưng thực trạng cho thấy việc ăn chơi của người Việt trong nước, ngay cả trong giới cán bộ quan chức rất phổ biến. Chắc chắn nếu những quán bia ôm, dịch vụ massage, và tụ điểm karaoke ôm được dựng lên để chỉ phục vụ khách Việt Kiều và du khách nước ngoài thì những tụ điểm này khó có được nhiều lợi nhuận, và số tụ điểm cũng không nhiều như hiện nay. Trong xã hội Việt Nam, việc một đám thanh niên rủ nhau đi massage ở một tụ điểm có mãi dâm xem ra không còn xa lạ nữa. Một nhóm đồng nghiệp sau giờ làm việc kéo tới một tụ điểm bia ôm cũng là sự thường rồi. Não trạng người Việt xem ra hơi lạ nếu không nói là ngược đời - một mặt là coi thường, gièm pha những cô gái mãi dâm, mặt khác lại giới thiệu, khuyến khích, và còn ép buộc phụ nữ vào nghề này, cũng như có những thái độ thông cảm và chấp nhận đối với nam giới trong việc mua dâm, làm cho tệ nạn ngày càng gia tăng.

Tạm kết

Từ khi đất nước thống nhất, Nhà nước đã có tham vọng thay đổi những suy nghĩ cũ kỹ, lạc hậu của thời phong kiến. Nhưng hiện nay, sự cải tiến trong lối suy nghĩ đã chưa được thể hiện thật sự, cụ thể là đối với sự tôn trọng quyền lợi và nhân phẩm của phụ nữ, trẻ em. Thiết nghĩ luật pháp, chính sách, phương pháp áp dụng phải khởi đi từ một não trạng và thái độ hiểu biết hơn. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước có trách nhiệm xây dựng hệ thống gia đình Việt Nam, đặc biệt là trong thời kỳ mà những thay đổi trong xã hội và kinh tế đang tạo ra nhiều áp lực trên các gia đình. Hình như thời gian qua, nền tảng gia đình Việt Nam đã chịu những ảnh hưởng quá tiêu cực khiến cho các gia đình không đủ sức mạnh để chống cự trước sức ép mãnh liệt của sự thay đổi, khiến nhiều gia đình phải bôn ba để kiếm sống. Trong nền kinh tế mới này, thiếu sự bảo hộ, nâng đỡ, và điều kiện để chạy theo những xu hướng thời đại, các gia đình Việt Nam hình như chỉ có thể tìm lối thoát bằng cách vắt cạn những gì họ có, có khi chỉ còn cách bán con hoặc bán thân. Trong bối cảnh này, thiết nghĩ các chiến dịch tuyên truyền, các nghị quyết chính phủ, các hành động cứu hộ và phục hồi nhân phẩm sẽ khó gặt hái được kết quả. Nỗ lực của Nhà nước không thể chỉ nhắm vào thi hành luật pháp, trong đó cần có sự đồng bộ trong sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, và tính chặt chẽ trong sự phối hợp giữa các nước trong việc chống tội phạm buôn người; nhưng phải xuất phát từ một cái nhìn sâu sắc về văn hoá, gia đình, và vai trò của Nhà nước là giúp người dân hạn chế những khuynh hướng tiêu cực của não trạng trọng nam khinh nữ, đồng thời tạo điều kiện cho đời sống gia đình được củng cố qua những chính sách thuận lợi cho việc duy trì sự chặt chẽ của từng gia đình. Vì như chúng ta thấy cách rõ ràng, khi gia đình gặp khó khăn, khi đời sống người dân túng thiếu, những người trở nên nạn nhân trong xã hội luôn là người phụ nữ và những em gái.

_______________

[i] eBAY Inc. là một chợ online tầm cỡ quốc tế có nhiều người sử dụng trên thế giới, mua bán hàng triệu loại đồ một lúc từ sách vở đến máy móc, quần áo.[ii] UNICEF, “Children and Women: A Situation Analysis, 1999”.[iii] Nguyễn Phong Hoà, “The Trafficking of Women and Children – Problems and Solutions”. Paper presented in the Regional Conference on “Illegal Labour Movements: The Case of Trafficking in Women and Children” in Thailand, 1997.[iv] Tinh Nhanh Việt Nam, 24.10.02.[v] Thanh Niên, 24.6.04.[vi] Người Lao Động, 23.3.05[vii] Thanh Niên, 12.7.04.[viii] RFA, 9.9.03.[ix] Tuôi Trẻ, 3.11.04.[x] Tin Nhanh Việt Nam, 8.9.03. Ngoài ước lượng này còn có những ước lượng với những con số khác nhau.[xi] Thanh Niên, 13.11.03.[xii] Thông Tấn Xã Việt Nam, 6.8.03.[xiii] Tin Nhanh Việt Nam, 10.5.02.[xiv] Lao Động, 27.9.01[xv] Vietnam Country Study.[xvi] RFA, 21.11.02.[xvii] Cambodia Country Study, 1996.[xviii] A.P., 16.4.01.[xix] Sunday Telegraph, 15.9.02[xx] Associated Press, 5.1.04.[xxi] UN Chronicle, no.2, 2003.[xxii] RFA, 4.3.04.[xxiii] Sunday Telegraph, 15.9.02.[xxiv] NBC News, Dateline, 4.04.[xxv] NBC News, Dateline, 4.04.[xxvi] Paul Handley, “Catch if catch can,” Far Eastern Economic Review, 13.2.92, tr.29.[xxvii] Mark J. VanLandingham, et al, "Sexual Activity Among Never-Married Men in Northern Thailand," Demography, Volume 30, No.3, 8.1993, tr.305[xxviii] The Economist, 8.2.1992, tr.33[xxix] Deutsche Press – Agentur, 2.3.98.[xxx] Reuters, 31.5.99.[xxxi]Tin Nhanh Việt Nam, 19.10.04[xxxii]Tuổi Trẻ Chủ Nhật, 29.6.97[xxxiii] RFA, 30.10.03[xxxiv] Tuổi Trẻ, 16.9.04.[xxxv] RFA, 11.7.04.[xxxvi] Vietnamnet, 4.11.04.[xxxvii] AFP, 25.8.04.[xxxviii] Thông Tấn Xã Việt Nam, 3.6.04.[xxxix] RFA, 21.11.02.[xl] RFA, 19.10.04.[xli] RFA, 10.8.04.[xlii] AFP, 6.11.04.[xliii] Tuổi Trẻ, 3.11.04.[xliv] RFA, 21.11.02.[xlv] Thông Tấn Xã Việt Nam, 2004.

No comments: