Saturday, April 21, 2007

THỆ HỆ MỚI: NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH ĐỐ



Một đời người bắt đầu bằng tuổi trẻ, nếu được nuôi dưỡng, giáo dục và sống trong một môi trường tốt thì chắc chắn giới trẻ sẽ có những đóng góp rất tích cực cho xã hội phát triển. Ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung, hằng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng thường có những chuyên mục nói về giới trẻ. Đôi khi là những tấm gương sáng về nghị lực, tính sáng tạo, và sự năng động của giới trẻ, nhưng đôi khi lại là những bài viết bày tỏ những mối quan ngại, lo âu, thậm chí chỉ trích về thế hệ trẻ ngày nay. Với cuốn sách này chúng tôi chỉ có dụng ý nói đến hiện trạng của giới trẻ Việt Nam, một đất nước sau ba mươi năm kết thúc chiến tranh thành phần dân số trẻ tuổi chiếm đại đa số.
Thời gian gần đây xã hội Việt Nam chứng kiến rất nhiều thành tích xuất phát từ tài năng và nghị lực của giới trẻ mang tính chất đột phá và vượt bậc. Báo, đài liên tục đưa tin về những người trẻ đã góp phần làm cho xã hội thăng tiến hay làm vẻ vang dân tộc qua những nỗ lực của mình. Tuy nhiên, xã hội lại không ngừng than phiền về họ và sử dụng những cụm từ như “hưởng thụ”, “sa đọa”, hay “đua đòi” để nhận định về lối sống của lớp công dân sinh ra và lớn lên sau chiến tranh.


Chính sự đối nghịch này đã thúc đẩy chúng tôi lấy tựa đề: Thế hệ mới: Những cơ hội và thách đo để đặt tên cho tập sách với sự chú tâm vào giới trẻ ở nước ta. Bước vào bối cảnh chính trị – kinh tế – xã hội hiện đại và sự toàn cầu hoá đang phát triển mạnh mẽ, mặc dầu giới trẻ Việt Nam đang đối diện với vô vàn cơ hội để thăng tiến về vật chất lẫn tinh thần, nhưng giới trẻ cũng phải đương đầu với vô số trở ngại vì xã hội ngày càng phức tạp do những phát triển thiếu cân bằng trong các lĩnh vực trên. Giới trẻ Việt Nam phải bơi giữa hai dòng nước cũ và mới – đang bị giằng co giữa những giá trị hiện đại và truyền thống, giữa lòng mong mỏi hấp thụ tinh hoa thế giới để thăng tiến và ước muốn giữ gìn lối sống thuần tuý của người Việt, giữa những kỹ thuật tân tiến và những phương tiện đơn giản, bình dị…


Những bài trong tập sách này (cũng như tập Giới trẻ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, 2004 chúng tôi đã thực hiện trước đây), nhằm mục đích bàn luận về một số vấn đề quan trọng liên quan đến giới trẻ Việt Nam, phần nào phản ảnh tâm trạng mâu thuẫn giữa niềm hy vọng và sự băn khoăn của xã hội đối với họ hiện nay. Mong rằng giới trẻ Việt Nam “hoà nhập nhưng không hoà tan” – giao lưu hợp tác với bạn bè quốc tế nhưng không làm mất bản sắc dân tộc. Học hỏi và tiếp thu những thành tựu của khoa học hiện đại phù hợp với điều kiện của đất nước nhưng không bắt chước nguyên vẹn, rập khuôn.


Vì kinh nghiệm và thời gian hoàn thành cuốn sách này có hạn, mặc dù chúng tôi đã có những cố gắng rất nhiều trong việc biên tập, chỉnh sửa, và sắp xếp các bài viết, nhưng không thể tránh hết những sai sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của bạn đọc để lần tái bản sau được tốt hơn.


Tháng 8, 2005

GIỚI TRẺ VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI



Mấy hôm nay trời bắt đầu đổ những cơn mưa lất phất làm ướt những đôi tà áo trắng phất phơ bay. Ngồi bên cửa sổ nhìn dòng xe qua lại trong cơn mưa, những hạt mưa nhẹ nhàng hôn lên má, tạo cho tôi một cảm giác se lạnh. Tôi nghĩ mông lung đến người bạn trên đường đi học về, nghĩ đến những đôi bạn trễ hẹn vì trời mưa, nghĩ đến những chiếc xe đi trong mưa thiếu an toàn…, và nghĩ nhiều đến các bạn trẻ của tôi.


Trở về Việt Nam sau 18 năm xa quê hương, hôm nay tôi được làm quen với nhiều bạn bè mới ở đây. Tôi không khỏi ngạc nhiên về cuộc sống tại đây sau những năm sống ở nước ngoài. Ấn tượng nổi bật nhất đối với tôi là phong cách chạy xe của các bạn trẻ trên các trục lộ giao thông trong thành phố, và cách giới trẻ Việt Nam đã hội nhập với giới trẻ trên toàn thế giới. Tôi đã quan sát và suy nghĩ nhiều về những người bạn của tôi, những người trẻ Việt Nam.

Giới Trẻ Việt Nam Trong Thời Kỳ Đổi Mới là tựa đề tôi chọn cho tập sách này để chia sẻ những suy nghĩ của mình và suy nghĩ của một số bạn cùng chí hướng đang quan tâm đến người trẻ, và đặc biệt là người trẻ Việt Nam. Những suy nghĩ có thể còn vội vã, nhưng nói lên một thực trạng đang diễn ra mà ai cũng có thể nhận ra điều đó.

Tôi xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một số suy nghĩ, một vài cái nhìn và đôi nét tổng hợp, được góp nhặt đây đó qua những tài liệu và kinh nghiệm thực tế về những hiện trạng của người trẻ đang diễn ra.

Cuối cùng, tôi xin gởi đến tất cả các bạn đã nhiệt tình đóng góp bài viết, cho tập sách thêm phong phú về hình ảnh và giàu chất liệu trong cuộc sống, lời cám ơn chân thành sâu xa nhất. Dù đã cố gắng hết sức trong việc biên tập, chỉnh sửa, sắp xếp nội dung các bài viết cho hợp lý, nhưng không tránh khỏi những sai sót trong tập sách này. Kính mong quý độc giả thông cảm và bỏ qua những gì làm độc giả không hài lòng khi đọc tập sách này. Xin gởi lời chào thân ái đến quý độc giả và tất cả các người bạn của tôi tại Việt Nam.

2004

SẮC MÀU:

Niềm hy vọng vào chất xám và Tấm lòng vàng của giới trẻ Việt kiều

Mất gốc

Một buổi sáng cuối tháng 2, năm 1986, mẹ tôi, các anh chị và tôi bước lên chiếc máy bay Hàng Không Việt Nam ở Phi Trường Tân Sơn Nhất để bắt đầu cuộc hành trình định cư ở Hoa Kỳ theo diện bảo lãnh. Gia đình chúng tôi đoàn tụ với bố tôi tại California; và sau những ngày tháng bỡ ngỡ ban đầu, tôi đã hoà nhập vào lối sống của người Mỹ như bao đứa trẻ khác tại đây. Vì qua Mỹ khi còn nhỏ nên tôi đã tiếp thu tiếng Anh nhanh chóng và ngôn ngữ này đã trở thành ngôn ngữ thông thạo đối với tôi. Vốn liếng tiếng Việt học được từ ba năm tiểu học dường như dừng lại trong khi tiếng Anh ngày càng trở nên rành rõi hơn. Ở trường tôi chơi với những người bạn Mỹ hay những bạn gốc Á châu sinh ra hoặc lớn lên ở đây giống như tôi. Những bạn mới ở Việt Nam qua, chúng tôi đặt cho cái tên là “fresh off the boat” (mới xuống thuyền), có nghĩa là quê mùa nên chúng tôi xa lánh không thèm chơi. Ở trường những học sinh gốc Việt như chúng tôi không bao giờ nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt, mà chỉ sử dụng nó khi ở nhà với bố mẹ.

Trong khi chúng tôi đặt nhãn hiệu cho những bạn mới định cư ở Mỹ thì cũng có những nhãn hiệu khác mà người tá gán cho người trẻ gốc châu Á như chúng tôi. Có người gọi chúng tôi là “quả chuối” hay là một loại bánh “twinkie” phổ biến ở Mỹ – quả chuối là vì bên ngoài nó có cái vỏ màu vàng mà bên trong thì lại màu trắng, và bánh “twinkie” vì bên ngoài nó cũng màu vàng mà ở giữa lại có một lớp kem màu trắng. Ý ở đây là chúng tôi chỉ có cái mã là người châu Á, chứ còn phong cách, lối sống, thói quen, khẩu vị và nếp suy nghĩ, nhân sinh quan đều đã hoàn toàn “Mỹ con”.

Hình thành bản sắc văn hoá
Tất cả những biểu hiện cho thấy rằng tôi cũng như bao nhiêu người bạn của tôi sẽ trở nên những người mất gốc, không biết cội nguồn, văn hoá truyền thống của mình. Tuy nhiên đôi khi ta có thể rời khỏi quê hương, nhưng quê hương lại không thể rời khỏi ta. Trong hành trình của cuộc sống, người trẻ gốc Việt ở hải ngoại trải qua những giai đoạn hội nhập với văn hoá địa phương. Đó là điều tất nhiên, vì bản năng của con người là phải thích nghi với môi trường hiện tại mới có thể sinh tồn. Trong quá trình chúng ta tiếp thu những điều mới thì buộc phải loại bỏ một số điều cũ không còn cần thiết trong bối cảnh hiện thực. Một người Việt trẻ sinh ra hay lớn lên ở một đất nước khác tất nhiên không thể tiếp thu những gì hoàn toàn không hiện diện trong môi trường mới hay hiện diện cách rất hạn chế, cụ thể là những phong tục tập quán Việt Nam. Tuy nhiên trí óc con người nhiều khi đặt ra những câu hỏi rất bất ngờ, mà một khi nó đã đặt ra thì nó đòi hỏi phải có câu trả lời. Chính vì thế mà con người luôn cố tìm cho được cái linh thiêng, cái siêu việt. Con người muốn biết mình là ai, mình đến từ đâu, và sẽ đi về đâu? Nỗi ưu tư về cội nguồn, bản sắc văn hoá là một trong những vấn đề ảnh hưởng đến đời sống con người, đặc biệt là khi chúng ta sống trong môi trường mà có sự khác biệt rõ ràng giữa mình và những người xung quanh, điển hình là môi trường đa văn hoá ở Mỹ.

Những người trẻ Việt kiều mặc dầu sinh ra hay lớn lên xa quê hương, nhưng cũng sẽ có ngày phải đối diện với những câu hỏi này và họ sẽ phải tìm ra cho mình một giải thích hợp lý. Năm lớp 11, một người bạn gốc Phi đến bàn với tôi về một ý kiến thành lập “Hội Học sinh người Mỹ gốc châu Á-Thái Bình Dương” ở trong trường. Không hiểu vì lý do gì, nhưng bổng nhiên tôi cảm thấy ý tưởng đó cực kỳ lôi cuốn. Thế là chúng tôi bắt đầu tiến trình xin phép nhà trường, soạn một bản nội quy, và phổ biến thông tin cho các học sinh người Á châu. Khi hội bắt đầu hoạt động, chúng tôi đã có những cuộc họp, những chương trình văn hoá trong trường, những chuyến đi tham quan viện bảo tàng văn hoá châu Á, tham dự những cuộc hội thảo về vấn đề người Mỹ gốc Á... Qua những sinh hoạt đó, bản sắc Á châu của chúng tôi được đánh động, hình thành, và chúng tôi được thách thức tìm ra những cắt nghĩa về nguồn gốc của chúng tôi. Chúng tôi vẫn trao đổi với nhau bằng tiếng Anh, nhưng nội dung của cuộc đối thoại có nhiều nét mới mẻ.

Khi vào Đại học Berkeley, tôi đã tham gia Hội Sinh viên Việt Nam tại đây, trong đó đa số thành viên thuộc thành phần sinh ra hay lớn lên ở Mỹ. Hội của chúng tôi có hàng trăm thành viên với nhiều sinh hoạt đa dạng. Chúng tôi tham gia vào các chương trình mừng tết nguyên đán của cộng đồng, tết trung thu, và tổ chức các chương trình văn nghệ văn hoá. Năm 1995, chúng tôi tổ chức chương trình “Mẹ Việt Nam”, năm sau đó là “Huyền Trân Công Chúa,” rồi “Truyện Kiều”. Năm 1998 là năm cuối cùng của tôi tại Berkeley, hội tổ chức chương trình với chủ đề “Những Mảnh Đời Việt Nam”. Gần đây tôi lên trang web của hội thì được biết là năm 2004, thế hệ “đàn em” đã tiếp tục chương trình với chủ đề “Tìm Về Chốn Cũ” như một hành trình trở về nguồn cội của mình. Không chỉ hội sinh viên của chúng tôi mà trên toàn Hoa Kỳ, hàng trăm hội sinh viên Việt Nam cũng có những hoạt động tương tự. Và trên cả trăm quốc gia trên thế giới có người Việt định cư, chắc chắn ở đâu có điều kiện thì người trẻ Việt Nam cũng đang làm những điều đó. Trong các cuộc họp hay trong diễn đàn của hội, mặc dầu chúng tôi sử dụng tiếng Anh, nhưng nội dung của nhiều cuộc nói chuyện lại xoay quanh nguồn gốc Việt Nam của mình.

Tôi nhớ đầu năm 1997, trường Berkeley tiếp đón đoàn múa rối Thăng Long trong chuyến lưu diễn của đoàn tại Hoa Kỳ. Sự kiện đã gây ra dư luận mạnh trong giới sinh viên Việt Nam. Một số cho rằng đây là một nỗ lực tuyên truyền của chính quyền Cộng sản Việt Nam, và dịp trình diễn múa rối là cơ hội tốt cho họ tham gia biểu tình để nói lên sự phản đối với chính sách trong nước. Thành phần khác thì nói rằng đây chỉ là một chương trình mang tính chất văn hoá; ai thích thi đi coi, không thích thì thôi. Số còn lại thì trung lập, cho rằng ai thích coi thì coi, ai thích biểu tình thì biểu tình. Sự kiện chương trình múa rối đã làm cho hội sinh viên bị chia rẽ. Nhưng sau đó không lâu, người dân Việt Nam bị cơn bão Linda hoành hành gây nhiều chết chóc và tang thương. Khi nhận được thông tin về sự thảm hại mà đồng bào tại quê nhà đang gặp phải, chúng tôi đã đứng lên tổ chức những nỗ lực quyên góp trong trường, trong cộng đồng, và đã gởi về cho Hội Chử thập đỏ số tiền gần 10.000 đô để hỗ trợ cho nạn nhân của thiên tai. Trong hoạt động quyên góp, điều đáng chú ý là đã có sự đóng góp của tất cả các thành phần sinh viên bất kể quan điểm. Sự kiện bão Linda đã cho tôi thấy rằng người trẻ Việt kiều có một sự quan tâm đặc biệt đối với hoàn cảnh đời sống của đồng bào ở quê nhà.

Lần đầu tiên tôi trở về Việt Nam là năm 1999, khi tôi đã 23 tuổi, trong một chuyến đi du lịch với bạn bè. Nhóm của chúng tôi có 8 người, nên chúng tôi đã bao một chiếc xe để đi tham quan tất cả nước Việt Nam từ Hà Tiên đến Hà Nội. Có thể nói chuyến đi đó là lần đầu tiên tôi được chứng kiến cảnh quê hương. Thời thơ ấu, tôi chỉ biết quanh quẩn trong làng trong xóm; nghe nói tới Hà Nội hay Huế thì chẳng khác gì nói về một thế giới xa vời nào đó. Tuy nhiên, điều ấn tượng nhất trong chuyến đi này là tôi đã trở lại làng của tôi ở Huyện Cam Ranh, tỉnh Khánh Hoà. Tôi đã ghi lại trong nhật ký cảm tưởng của mình khi trở lại nơi mình sinh ra và sống thời thơ ấu: “Tôi không ngờ những chặng đường từ nhà tới trường, từ nhà tới nhà thờ, tới nhà bà con trước đây xem có vẻ rất xa, thì bây giờ xem thật ngắn ngủi. Con suối mà trước đây mỗi lần mưa xuống tôi không dám bước qua vì sợ bị nước cuốn đi bây giờ xem ra cũng chẳng có gì đáng ngại. Sân trường rộng thênh thang của ngày nào, giờ nhìn cũng chỉ là một mảnh đất nhỏ bé”. Tôi đã không tìm lại những gì trong ký ức của mình trong chuyến đi này; ngược lại, tất cả những gì tôi chứng kiến ở vùng miệt đồng bằng Sông Cửu Long hay ở miền Trung, miền Bắc đều hoàn toàn mới đối với tôi. Tuy nhiên, tất cả những cảnh vật của quê hương Việt Nam đã để lại một ấn tướng mạnh mẽ trong tâm trí tôi và khơi dậy tâm tính nguồn gốc Việt đang ẩn nấp trong tôi.

Không phải người trẻ nào về Việt Nam cũng có một cảm nhận sâu sắc về nguồn gốc quê hương mình. Có các bậc cha mẹ Việt kiều cho hay họ dẫn đứa con 13 tuổi về Việt Nam để biết bà biết con, biết quê cha đất tổ, nhưng được năm ba ngày là chúng đòi về vì không chịu nỗi khí hậu nóng nực, tình trạng thiếu vệ sinh, hay sự ồn ào khói bụi của thành phố. Họ cho rằng nếu bây giờ chúng đã như vậy thì e rằng càng lớn lên, chúng càng lãng quên nguồn gốc. Tuy nhiên, để một người có những cảm nhận về bản sắc, nguồn cội không phải là điều đơn giản, người đó cần có một số kinh nghiệm, tư duy, và hiểu biết về bản thân. Bản sắc văn hoá được hình thành qua nhiều giai đoạn trong đời sống. Chính vì vậy mà có những người trẻ đã rời xa quê hương trên 20 năm, nhưng khi họ trở về Việt Nam thì bổng nhiên họ nhận ra nhiều điều mới lạ, và tìm ra câu trả lời cho những khắc khoải mà nhiều năm qua chưa tìm được giải thích nào thoả đáng.

Tiềm năng của cộng đồng người Việt ở nước ngoài

Đây có lẽ là một mở bài khá dài dòng để dẫn đến chủ đề của bài viết về khả năng giới trẻ gốc Việt ở hải ngoại trong việc cộng tác vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhưng tôi nghĩ nó sẽ phần nào nói lên bối cảnh đời sống và tiến trình hình thành ý thức hệ về bản sắc văn hoá và nguồn cội dẫn đến một viễn tượng về sự liên kết giữa cá nhân người trẻ hải ngoại và quê hương của mình. Những người trẻ Việt Nam ở nước ngoài sống trong một cộng đồng rải rác ở 100 quốc gia trên thế giới với tổng số gần ba triệu người, đó là một cộng đồng gần một nửa thành phố Hồ Chí Minh. Đa phần định cư ở các quốc gia Úc, Pháp, Mỹ. Riêng ở Mỹ, trong lần tổng kê dân số năm 2000, cộng đồng người Việt là trên 1,1 triệu, trong đó có đến 27% là giới trẻ dưới 18 tuổi. Tuổi trung bình của toàn cộng đồng là 30,5. Ở vùng Vịnh San Francisco, giới trẻ dưới 25 tuổi chiếm gần một nửa. Ở Úc nơi có gần 250.000 người Việt định cư (theo thống kế 1999), tỷ lệ kiều bào dưới 35 tuổi chiếm 63,0%. Hàng năm, số người Việt hải ngoại về Việt Nam lên tới hàng trăm ngàn người, trong đó khoảng 1/3 về quê vào dịp Tết nguyên đán. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, năm 2003 Việt kiều ở khắp nơi đã chuyển về nước qua đường dây chính thức đạt được 2,7 tỷ đô-la. Nếu tính luôn số tiền được chuyển qua các đường dây không chính thức và tiền người Việt hải ngoại tiêu sài trong các chuyến đi về nước thì số tiền này vượt qua 4 tỷ đô, một số tiền chiếm gần 12% GDP của Việt Nam trong năm 2003. Ít nhất là 50% số tiền đó xuất nguồn từ người Việt ở Mỹ. Trong năm 2004, Ngân hàng Nhà nước ước đoán chỉ riêng kiều hối đạt được khoảng 3,8 tỷ đô – một con số kỷ lục hoàn toàn cách biệt với số lượng “khiêm tốn” 35 triệu đô vào năm 1991.

Mặc dầu cộng đồng người Việt có mặt ở các nước không mấy lâu, nhưng họ cũng đã đạt được một mức độ ổn định. Họ còn có những thành tích đáng kể ở nhiều mặt trong xã hội. Tại các nước Canada, Mỹ, Pháp,… nhiều người Việt hải ngoại đã vươn lên từ hoàn cảnh nghèo khó trong những năm chân ướt chân ráo trên đất khách quê người để tạo cho mình một cuộc sống sung túc và thành đạt. Như tất cả các cộng đồng di dân khác, người Việt hải ngoại vẫn đang chiến đấu với những vấn đề trong cộng đồng như hoàn cảnh nghèo khó, băng đảng, ngay cả vấn đề chia rẽ. Tuy nhiên với một dân số dưới 3 triệu người mà có trên 300.000 người có bằng đại học, cao học, tiến sĩ là một thành tích lớn. Ở Mỹ, người Việt có mặt trên bục giảng đại học, trong các phòng nghiên cứu quan trọng, trong các bệnh viện, trong vị trí cao cấp thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin, và ngay cả trong bộ phận chính quyền. Ngày nay, số bác sĩ Việt kiều còn đông hơn trong nước. Riêng ở Pháp có đến hơn 40.000 người hành nghề bác sĩ, luật sư, giáo sư, và kinh doanh lớn trong tổng số người Việt chưa tới 300.000 người. Những năm tôi học ở Berkeley, dường như tất cả các người bạn gốc Việt của tôi đều theo học các ngành kỹ sư, hay bác sĩ. Trong chuyên ngành sinh hoá, đa số các bạn người Việt có ý định xin vào trường Y, Dược, hay Nha khoa sau khi tốt nghiệp cử nhân. Ngay cả trong gia đình của tôi có 5 anh em học đại học thì 3 người đi theo ngành kỹ sư, còn tôi và chị kế thì thèo nghành sinh hoá.

Việt Nam và giới trẻ gốc Việt ở nước ngoài

Mặc dầu không có thống kê chính xác, nhưng quan sát cho thấy trong trên 300.000 người Việt hải ngoại về quê mỗi năm có một phần đáng kể là các người trẻ. Nhiều người trong nhóm này không chỉ về một lần nhưng là lần thứ hai hay thứ ba. Nhiều người trong họ về vì bố mẹ bắt đi, hay tò mò vì nghe bạn bè kể về Việt Nam có nhiều thay đổi, có nhiều chỗ tham quan. Nhưng nhiều người trong họ cũng có những hoài bão muốn chứng kiến đời sống của đồng bào ở quê nhà và tìm cho mình một sự hiểu biết về bản sắc văn hoá của mình. Giới trẻ Việt kiều, đặc biệt thành phần vẫn nặng lòng với quê hương, là một lực lượng trí thức tài giỏi mà nhà nước Việt Nam đang kỳ vọng sẽ chung sức góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do họ được đào tạo cách chính quy và được cập nhật hoá những thành tựu mới về mọi lĩnh vực khoa học, công nghệ và quản lý, và hứa hẹn nhiều khả năng phát triển, trong mắt của Đảng và Nhà nước, họ đã trở thành “một bộ phận không thể tách rời và là nguồn lực quan trọng của đất nước”. Khả năng đóng góp của Kiều bào không chỉ ở “chất xanh” mà bây giờ có sự quan tâm lớn vào chất xám, đặc biệt là chất xám của giới trẻ.

Những đặc điểm của giới trẻ Việt Nam hải ngoại như thế nào? Đương nhiên khi sinh sống trong xã hội Tây phương thì họ buộc phải hấp thụ tính cách đặc thù của xã hội sở tại. Ngay cả những sinh viên Việt nam đi du học nước ngoài sau vài năm đã có một tầm nhìn khác so với đồng nghiệp của họ trong nước. Vì vậy, giới trẻ Việt Nam hải ngoại có cung cách làm việc rất cởi mở và thẳng thắn. Được đào tạo trong nền giáo dục luôn khuyến khích sự chủ động, sáng tạo, và đột phá, họ thích bàn bạc về các khía cạnh liên quan đến việc làm và họ muốn có sự trao đổi kiến thức giữa họ và các đồng nghiệp với mục tiêu phân tích kỹ lưỡng để tìm giải pháp chung cho các vấn đề liên quan đến công việc. Trong môi trường làm việc, để tối ưu hoá năng lực, họ đòi hỏi các phương tiện nghiên cứu, phát triển, kỹ thuật, viễn thông… phải tiến bộ và không bị rào cản. Được hấp thụ môi trường có sự đối xử bình đẳng, giới trẻ hải ngoại ít kiên nhẫn với những phân biệt giai cấp, tuổi tác, màu da, chức vụ hay mối quan hệ mà không có gì liên quan đến công việc, tài năng hay hiểu biết.

Chính vì tiềm năng rất cao của cộng đồng người Việt hải ngoại nói chung, và giới trẻ Việt kiều nói riêng, Hà Nội đã tìm cách tiếp cận với họ và dẫn đến việc Nhà nước thành lập Uỷ ban về người Việt ở nước ngoài (NVƠNN) vào cuối thập niên 1980. Dịp tết nguyên đán 2005, do NVƠNN về quê ăn tết tấp nập nên trên hệ thống thông tin đại chúng có rất nhiều tin tức về kiều bào và những cuộc gặp gỡ giữa các lãnh đạo với cộng đồng Việt kiều ở Việt Nam. Có nhiều bài nói về tiềm năng của NVƠNN đối với sự nghiệp phát triển đất nước, và sự tiếp đón nồng hậu kiều bào về quê thăm viếng hoặc làm ăn. Tuy nhiên, những năm trước đây, chính sách của Hà Nội đã không mấy gây cảm tình đối với kiều bào. Về Việt Nam, Việt kiều phải xin visa, mặc dầu nhiều người vẫn còn mang hai quốc tịch. Khi kiều bào sử dụng những dịch vụ khách sạn, viễn thông, tàu bè, họ phải trả giá dành cho người nước ngoài. Gởi tiền về Việt Nam, họ phải chịu mức thuế 5%. Khi kiều bào đi lại trong nước, họ bị chính quyền theo dõi từng bước, thậm chí những người họ tới thăm cũng bị nghi vấn. Tối xuống, họ phải ngủ ở khách sạn và chỉ có thể thăm bà con họ hàng vào ban ngày. Nhà nước còn nghi ngờ cộng đồng NVƠNN có vai trò quan trọng trong hiện tượng được gọi là “diễn tiến hoà bình” cũng như luôn cảnh giác về những thành phần mang thái độ cực đoan với chế độ. Năm 1997, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký nghị quyết 767/TTg tạo ra những ưu tiên đặc biệt cho kiều bào khi về nước, nhưng chỉ dành cho những ai thuộc về các phong trào yêu nước đang hoạt động ở nước ngoài và các trí thức được các cơ quan có phép của Nhà nước mời về làm việc. Chính sách như thế đã làm cho kiều bào e ngại và tiếp tục giữ khoảng cách.

Thời gian gần đây Hà Nội đã thừa nhận có một số sai lầm trong chính sách đối xử với kiều bào và đang tìm cách khắc phục, mặc dầu với mức tiến chưa làm cho họ hài lòng và mối quan hệ giữa hai bên vẫn còn một khoảng cách khá xa. Thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Phú Bình phát biểu: “Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách về vận động NVƠNN cũng như nhiều chính sách tạo thuận lợi cho bà con trong việc về thăm thân nhân, sở hữu nhà đất, bình đẳng trong giá các dịch vụ và khuyến khích bà con về nước đầu tư, kinh doanh. Nhiều chính sách và chủ trương đã và đang từng bước đi vào cuộc sống và được bà con Việt kiều hoan nghênh. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng những chính sách này vẫn còn một số điểm hạn chế, chưa đáp ứng được đầy đủ nguyện vọng của bà con. Mặt khác, việc thực hiện chính sách chưa đồng bộ, thậm chí có những trường hợp cá biệt còn trái với cả chủ trương, chính sách của Nhà nước. Lý do thứ hai là hoàn cảnh hiện tại rất khác so với thời điểm ban hành những chính sách trước đây. Nếu như năm 1986-1987, số bà con Việt kiều về thăm quê chỉ khoảng 8.000 người thì nay đã tăng lên 360.000 lượt người/năm, lượng kiều hối chuyển về cũng đạt được mức kỷ lục. Chính vì thực tế này đòi hỏi những chủ trương mạnh dạn hơn, thông thoáng và toàn diện hơn trong chính sách đối với NVƠNN”.

Nghị quyết 36 được chính phủ thông duyệt năm 2004, theo Hà Nội là để tái khẳng định một cách công khai và mạnh mẽ những chủ trương, chính sách ưu đãi của Nhà nước dành cho bà con Việt kiều, cũng như xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước đối với cộng đồng NVƠNN. Tuy nhiên, ngôn ngữ và nội dung của nghị quyết vẫn còn bị nhiều người Việt hải ngoại chỉ trích vì họ cho rằng Nhà nước mang thái độ “ban ơn” đối với Kiều bào. Trên thực tế, những gì được đề cập tới trong nghị quyết vẫn không được thực hiện tốt, điển hình qua việc Kiều bào được phép mua nhà (như trong nghị định 81/CP ban hành năm 2001) rất khó khăn do từ ngữ thiếu rõ ràng kèm theo nhiều thủ tục rắc rối. Một trong những thủ tục gây nhiều trở ngại nhất những năm qua là việc đòi hỏi Việt kiều muốn mua nhà phải cấp giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam hoặc giấy xác nhận mất quốc tịch Việt Nam. Chính sách lại hạn chế về đối tượng, số lượng nhà ở được mua và được sở hữu. Trình tự thủ tục cấp giấy sau khi mua được nhà ở rất phức tạp. Chính vì vậy mà báo cáo của Bộ Xây dựng trình chính phủ cuối năm 2004 cho thấy sau 3 năm từ khi triển khai thực hiện NĐ81, số NVƠNN mua nhà ở Việt Nam chỉ võn vẹn 60 trường hợp, trong đó ở Tp.HCM có 45 căn. Ngay cả trong việc thuê nhà, Việt kiều thường phải trả một giá đắt hơn người trong nước do mức thuế mà chủ nhà phải trả khi cho người nước ngoài thuê. Những lần tôi đi tìm nhà thuê ở Sài Gòn, khi hỏi giá thuê cho một căn nhà có 5 phòng, chủ nhà thường nói là 5 triệu đồng/tháng. Nhưng khi tôi khai là Việt kiều, giá thuê lập tức biến từ 5 triệu thành 500 đô.

Các thành phần giới trẻ gốc Việt ở nước ngoài

Liệu chủ trương đại đoàn kết dân tộc được đề cập trong nghị quyết 36 sẽ là một động cơ thúc đẩy giới trẻ hải ngoại trở về Việt Nam hợp tác xây dựng đất nước, ngay cả thành phần thật sự quan tâm đến sự phát triển của quê nhà không? Hiện nay, ở Việt Nam đang có nhiều bàn thảo về vấn đề chảy máu chất xám vì sinh viên Việt Nam ra nước ngoài du học không chịu trở về nhưng quyết định tiếp tục ở nước ngoài lập nghiệp. Một hình thức chảy máu chất xám trong nước là sinh viên miền quê lên thành phố học rồi lập nghiệp ở đó, chứ không tìm cách trở về vùng quê để xây dựng nền kinh tế địa phương. Các sinh viên Việt Nam sinh ra và lớn lên trong nước ắt phải nặng lòng hơn với quê hương. Tuy vậy, thành phần du học lại đang nhanh chóng nắm lấy các cơ hội để ở lại nước ngoài lập nghiệp, một phần do điều kiện thăng tiến ở nước ngoài cao hơn ở trong nước. Về Việt Nam, họ ít có cơ hội để tiếp tục sử dụng vốn kiến thức đã tiếp thu được cũng như phát triển khả năng theo đường hướng tích cực. Vấn đề sử dụng tài năng trong chính quyền và các cơ quan đã từng được báo chí trong nước bàn tới như một khuyết điểm nghiêm trọng trong tình trạng hiện nay. Như vậy thì kỳ vọng vào giới trẻ hải ngoại về Việt Nam xây dựng đất nước có thực tế chăng?

Quan sát cho thấy trong giới trẻ hải ngoại không có sự đồng nhất. Một số giới trẻ vẫn còn mang nhiều ác cảm với hệ thống chính trị trong nước, khiến họ không thể đón nhận lời mời gọi trở về Việt Nam hợp tác. Họ có tư duy phản đối hệ thống chính trị ở Việt Nam rất nặng. Thậm chí việc sử dụng từ TP.HCM thay cho Sài Gòn có thể làm cho họ phẫn nộ. Nhiều người trong họ quả quyết lúc nào có sự thay đổi chế độ họ mới đồng ý hợp tác. Ngoài ra cũng có một bộ phận giới trẻ Việt kiều không cảm thấy gắn bó với quê hương nên việc đầu tư kinh doanh hay tham gia những dự án khác ở một đất nước vốn có nhiều vấn đề nhiêu khê càng không mấy hấp dẫn. Trường hợp của Phan Danh, một sinh viên năm thứ tư ngành kỹ sư sinh học ở trường đại học Berkeley ở Mỹ là điển hình cho quan điểm trên. Danh sinh ra ở Việt Nam nhưng sang Hoa Kỳ từ khi còn nhỏ. Phản ứng của Danh trước lời mời gọi của chính phủ Việt Nam đối với giới trẻ Việt kiều như sau: “Tôi nghĩ [Nhà nước Việt Nam] có lẽ chỉ muốn lợi dụng họ. Giới trẻ Việt kiều sẽ được cái gì khi họ trở về giúp đỡ một đất nước mà chỉ là quê hương của cha mẹ họ? Giới trẻ Việt kiều sẽ ít có lòng mong muốn cộng tác trong việc phát triển Việt Nam vì họ không biết gì về đất nước này. Đối với họ Việt Nam cũng giống như bất cứ một quốc gia nước ngoài khác. Nếu có sự bảo đảm an ninh và lợi nhuận thì may ra có nhiều người trở về, chứ còn đâu ai muốn đi làm ở một nơi mà mình có nguy cơ bị bỏ tù vì không hiểu biết về luật pháp ở đó”.

Chúng ta khó xác định các nhóm người trẻ này chiếm bao nhiêu phần trăm. Tuy nhiên theo quan sát thì họ không thuộc phần đa. Nhóm chiếm tỷ số cao nhất thuộc về thành phần chưa có ý định trở về, nhưng cũng không loại trừ việc ấy có thể xảy ra. Thành phần này không có thái độ cực đoan đối với Đảng Cộng sản, nhưng họ vẫn có rất nhiều bất đồng với chế độ và các chính sách Nhà nước hiện nay. Tuy nhiên, nhiều người trong họ bị lôi cuốn vào đời sống hiện tại và không hề có ý nghĩ gì xa hơn. Số khác lại có ý tưởng về nhưng không chủ động tìm hiểu và thực hiện ý tưởng đó. Số khác thì xem việc xây dựng đất nước có phần hấp dẫn nhưng lại e ngại về chính sách nhà nước đối với Việt kiều, cơ hội áp dụng và phát triển khả năng chuyên môn của họ, cũng như không chấp nhận các tiêu cực như thiếu rõ ràng trong luật pháp, cách làm việc của chính quyền có quá nhiều vấn đề quan liêu, và tệ nạn tham nhũng lan tràn. Nguyễn Trí là một sinh viên cao học ngành công nghệ thông tin ở Bắc California. Anh đã từng có ý định cộng tác vào sự phát triển của Việt Nam. Nhưng trong một chuyến đi thăm quê, do chứng kiến tệ nạn tham nhũng và những mâu thuẫn trong xã hội đã ảnh hưởng đến tinh thần của anh cách tiêu cực. Tuy nhiên, Trí lại đang có ý định giúp đỡ bà con ở quê nhà làm kinh doanh trong tương lai gần.

Giới trẻ hải ngoại cũng rất e ngại về môi trường sinh sống xô bồ, cơ sở hạ tầng không tốt, và hệ thống đi lại thiếu trật tự thoải mái. Lê Albert là một người trẻ hải ngoại trong ngành luật di trú. Mặc dầu Albert chưa bao giờ về Việt Nam, nhưng ý tưởng về Việt Nam làm việc cũng đã nảy lên trong đầu anh. Tuy nhiên, đối với Albert, điều cản trở anh không thể thực hiện điều này là vì không đủ “can đảm” hy sinh đời sống an nhàn ở Mỹ để chạy theo một dự án thiếu chắc chắn ở Việt Nam. Bên cạnh đó, nhiều người quan điểm rằng mức lương ở Việt Nam chưa đủ cạnh tranh để lôi cuốn họ bỏ công việc hiện tại.

Nhóm còn lại là những người đã từng tham gia vào những dự án kinh tế, xã hội, nhân đạo… Tuy họ bất đồng ý kiến với chính quyền cộng sản, nhưng họ sẵn sàng gạt qua những mặc cảm đó để tham gia xây dựng đất nước, xã hội Việt Nam. Họ quan điểm rằng chúng ta có thể phân biệt giữa chính trị và những lĩnh vực khác trong đời sống của đất nước. Tham gia của họ có thể trực tiếp hay gián tiếp. Tôi có một người bạn đã từng tổ chức quyên góp sách giáo khoa về khoa học, kỹ thuật để gởi về Việt Nam. Có nhiều người trẻ tham gia vào nỗ lực xây dựng các ngân quỹ để hỗ trợ cho học sinh nghèo khó ở quê nhà. Tháng 2 năm 2005, tôi tham dự một chương trình văn nghệ của Tổng hội Sinh viên Việt Nam tại bang Illinois. Trong chương trình, ban tổ chức đã giới thiệu những dự án nhân đạo cho Việt Nam mà hội đang cộng tác và kêu gọi sự ủng hộ từ các thành viên cũng như từ khán giả trong chương trình. Cách đây không lâu một bạn trẻ tên Liên đã nhờ tôi giới thiệu cho cô ta một tổ chức nhân đạo tại Việt Nam mà cô ta có thể cộng tác lâu dài với một mức lương “vừa sống”. Cô đã từng xin việc ở những tổ chức như UNICEFVN nhưng chưa thành công.

Hai năm qua, Lê Ngọc Trâm, một dược sĩ trẻ ở California đã tham gia vào tổ chức Social Assistance Program for Vietnam (Chương trình hỗ trợ xã hội cho Việt Nam) ở Hoa Kỳ. Tổ chức này bao gồm các bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ và tình nguyện viên người Việt. Họ quyên góp tiền để hỗ trợ cho các trung tâm y tế và xây dựng trường học tại Việt Nam. Chị Trâm là một trong số người trẻ hải ngoại quan điểm rằng, giới trẻ Việt kiều ở nước ngoài nên hợp tác trong các lĩnh vực xã hội kinh tế để giúp giải quyết những vấn đề nan giải mà Nhà nước Việt Nam chưa thực hiện được. Hai năm qua, chị Trâm và các đồng nghiệp trong tổ chức SAP-VN đã tự bỏ tiền ra để về Việt Nam phân phát thuốc, khám sức khoẻ, mổ và chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, đặc biệt là trẻ em. Tháng 11 năm 2004, trong chuyến đi về Hội An, nhóm này đã mổ và chữa bệnh cho 2.000 bệnh nhân. Trong chuyến đi năm trước đó, nhóm đã làm việc với 2.500 ca bệnh nhân. Đối với chị, việc giúp các bệnh nhân ở Việt Nam là trách nhiệm của mình đối với những người vô phúc và là hành động mang lại ý nghĩa cho đời sống của chị vì “chúng ta không thể đứng bên lề để chứng kiến đồng bào mình đau khổ”. Mặc dầu chị vẫn có những bất đồng với chính quyền tại Việt Nam, song chị cho rằng nhiều Việt kiều quá nghi ngờ về sự thiện chí của chính quyền cộng sản vì Nhà nước đã phần nào tạo điều kiện thuận lợi cho công tác của chị ở quê nhà. Trong nhận xét của chị, kiều bào là những người đã từng trải qua nhiều biến cố đau đớn trong đời sống, bởi thế nên dễ dàng có sự đồng cảm với đồng bào ở quê nhà. Chị còn ước vọng rằng chính hành động quảng đại của mình sẽ để lại ấn tượng với các bệnh nhân trẻ, để mai này khi họ trở thành các nhà lãnh đạo đất nước, họ sẽ mang thái độ nhân từ và rộng lượng.

Cuối tháng 6 năm 2002, tôi bước xuống máy bay tại phi trường Tân Sơn Nhất, đây là lần thứ hai tôi trở về Việt Nam. Trong tay tôi có giấy visa 6 tháng, thuộc diện thương mại. Nhưng trên thực tế, tôi không có dự định làm ăn Việt Nam. Sau đó không lâu, tôi bắt đầu tham gia vào các công tác xã hội, đặc biệt là với giới trẻ nghiện ma tuý. Bản thân tôi cũng có nhiều e ngại về khả năng hoạt động tại quê nhà. Tôi có bị theo dõi hay không? Chính quyền sẽ phản ứng như thế nào với sinh hoạt của tôi? Tôi ở trong một căn nhà thuê ở ngoài mặt tiền, nên việc tôi đi đi về về lúc nào cũng có sự quan sát của hàng xóm. Suốt thời gian hai năm ở đây tôi không hề cho ai trong xóm biết về sinh hoạt của mình. Một trong những niềm hạnh phúc của tôi thời gian hoạt động ở Việt Nam là đã nhận được nhiều khuyến khích từ nhóm cựu sinh viên ở ĐH Berkeley về tinh thần lẫn vật chất. Sau khi tôi viết một điện thư ngắn đến các thành viên trong nhóm bày tỏ nhu cầu có sự hỗ trợ cho sinh hoạt của mình thì lập tức họ đã chiếu cố tôi cách nhiệt tình.

Tôi đã tham gia vào công tác xã hội với giới trẻ nghiện ma tuý vì đây là một tệ nạn nghiêm trọng ảnh hưởng đến sự ổn định của xã hội người Việt và tương lai của giới trẻ Việt Nam. Bản thân tôi cũng là một người trẻ khiến tôi dễ dàng có sự đồng cảm đối với những người trẻ đang cố tìm một lối đi trong xã hội đang phát triển với mức độ chóng mặt. Tuy nhiên, là một người có học ắt tôi phải có những quan điểm riêng tư về các vấn đề trong xã hội sở tại, từ ngành bưu chính viễn thông, giao thông vận tải cho đến tệ nạn dạy thêm học thêm. Vì tôi gắn bó với tệ nạn ma tuý nên tôi theo dõi kỹ lưỡng các khía cạnh liên quan đến vấn đề qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua sự trao đổi với các đồng nghiệp, các bạn trẻ, và kinh nghiệm cá nhân. Nhiều lần ngồi trong quán café, tôi và những người bạn đã từng có nhiều cuộc tranh luận sôi nổi về các vấn đề đang được chú ý trong báo chí, cũng như những vấn đề chưa được quan tâm đúng mức. Tôi lại càng bức xúc hơn vì có những yếu tố xã hội, kinh tế, chính trị…hạn chế hiệu lực của hoạt động của mình.

Kinh nghiệm cộng tác của các người trẻ Việt kiều
Kinh nghiệm của tôi và nhiều người bạn trẻ người Việt hải ngoại đối với xã hội Việt Nam có nhiều vấn đề mâu thuẫn. Trong khi Việt Nam đang tìm cách tiếp cận với giới trẻ hải ngoại thì cũng có nhiều nhận định không mấy thiện cảm về họ. Giới trẻ NVƠNN hay bị đánh giá là thành phần “dân Việt kiều” có phong cách phô trương, kiêu ngạo. Do hấp thụ môi trường phương Tây, thành phần này được cho là có lối sống tự do, phóng đãng, theo chủ nghĩa cá nhân. Ngược lại, nhiều người trẻ NVƠNN cũng gặp nhiều bức xúc khi làm việc tại Việt Nam. Mặc dầu họ sẵn sàng tham gia vào sự phát triển của đất nước, nhưng quá nhiều yếu tố làm cho tinh thần họ bị suy giảm. Trần Daniel, có bằng Thạc sĩ trong ngành giáo dục, là một giáo viên Anh ngữ ở TP.HCM. Sau hai năm làm việc tại đây, anh đang chuẩn bị trở lại Mỹ vĩnh viễn và sẽ không bao giờ nghĩ đến làm việc tại Việt Nam do thái độ tiêu cực của người Việt trong nước đối với người Việt hải ngoại. Kinh nghiệm cho thấy người Việt có xu hướng đánh giá trình độ của người Việt hải ngoại thấp hơn người Tây, dẫn đến nhiều cản trở về khả năng làm việc cũng như ảnh hưởng đến mức lương bổng. Daniel cho rằng đây là não trạng được gây nên bởi kinh nghiệm thực dân mà người Việt đã phải trải qua trong nhiều thời đại trong lịch sử. Tình trạng có 3 mức lương – cho người nước ngoài, Việt kiều, và người Việt trong nước – là một điều dẫn đến nhiều căng thẳng giữa các thành phần bị ảnh hưởng. Tôi từng quen với một giáo viên Anh ngữ người Mỹ ở Việt Nam. Mặc dầu anh ta chưa có bằng đại học, nhưng tôi có thể khẳng định rằng, tại Việt Nam anh sẽ được ưu tiên về lương bổng lẫn cơ hội được nhận vào trung tâm ngoại ngữ hơn tôi vì tôi có da vàng, tóc đen, không phải da trắng tóc vàng như anh ta. Bất kể tôi mang tấm bằng từ một trường đại học thuộc hạng giỏi ở Mỹ hay là hoàn toàn thông thạo về tiếng Anh, cũng như nắm được một ít căn bản trong tiếng Việt.

Nguyễn Minh đã từng tham gia vào Project Vietnam (Dự án Việt Nam) giúp đỡ những trẻ em nghèo có cợ hội được chữa bệnh, cũng như những hoạt động khác. Hè năm 2001, sau khi tốt nghiệp đại học, Minh và một người bạn quyết định về Việt Nam để dạy tiếng Anh tự nguyện cho các sinh viên ngành dược ở thành phố, các học sinh trung học ở Miền Tây, và một nhóm giáo viên Anh ngữ ở đó. Trong các lớp học, Minh áp dụng phương pháp đối thoại giữa thầy và trò với phương cách cởi mở như ở Tây phương. Minh kể: “Với bầu không khí vui vẻ và nhẹ nhàng mà chúng tôi đã tạo ra qua cách dạy hài hước và vui nhộn, chúng tôi đã dần dần bắt đầu cảm thấy quý mến các em và các em cũng mến chúng tôi. Các em cười rộn rã mỗi khi tôi viết tiếng Việt sai chính tả hay dịch những từ tiếng Việt không chính xác, và chúng tôi cũng cảm thấy hạnh phúc khi chứng kiến nụ cười loé trên môi thể hiện niềm hạnh phúc khi các em trả lời đúng”.

Niềm hạnh phúc giữa thầy và trò đã không tồn tại mãi vì đến tuần thứ ba, ban đào tạo của trường đã thông báo với Minh là có chỉ đạo từ cấp tỉnh là phải chấm dứt lớp học vì hai lý do. Thứ nhất, giấy xin phép tỉnh chưa được đầy đủ. Thứ hai, trong bài học có hai đề tài mà ngành giáo dục Việt Nam cho là không thích hợp. Hai đề tài đó là gì? Bài thứ nhất đề cập đến vấn đề mê tín, là một đề tài bị cấm kỵ, mặc dầu trong bài học của Minh không có nội dung gì nhằm phổ biến sự mê tín dị đoan. Bài thứ hai là một bài báo nói về cô gái Chelsea Clinton, con của cựu Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton, tốt nghiệp đại học. Về sau, Minh đã được cho hay rằng ở cấp tỉnh đã không hài lòng khi Minh về Việt Nam đem theo ba máy vi tính tặng cho trường học mà không “biết điều” với tỉnh, mặc dầu anh về Việt Nam làm việc hoàn toàn miễn phí trên tinh thần tự nguyện. Phải chia tay với các học sinh ở Miền Tây quả là một việc không dễ chút nào. Minh kể: “Trong đời sống của tôi, tôi đã đứng lên phát biểu ở nhiều nơi công cộng, nhưng chưa bao giờ tôi thấy khó như lúc đó. Ngay khi bước vào lớp học tôi đã cảm thấy gánh nặng đè lên ngực mình. Nhìn những đứa bé chảy nước mắt trước khi tôi kịp mở miệng đã làm cho chính tôi cũng muốn khóc”.

Chính vì kinh nghiệm tiêu cực đó khiến Minh có nhiều bức xúc đối với cách làm việc tại Việt Nam. Khi nói về việc Nhà nước kêu gọi NVƠNN cộng tác vào nỗ lực phát triển đất nước, Minh đã phản ứng: “Tôi thấy thật tệ hại là Việt Nam phải đi nhờ người khác để giúp họ phát triển. Trường hợp này không nên xảy ra. Cũng như trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, quá nhiều công trình được các chính phủ trên thế giới hỗ trợ. Việt Nam cần phải tự lo liệu cho bản thân, thay vì rút ruột các công quỷ rồi lại cầu cứu thế giới”. Nhưng rồi, Minh vẫn cho rằng nếu điều kiện thuận lợi, nếu có những cải tiến trong các lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế, anh sẵn sàng đóng góp tài năng và công sức để xây dựng đất nước.

Trong bài này, chúng tôi đã đề cập nhiều về việc các bạn trẻ tham gia vào các dự án nhân đạo, xã hội, giáo dục. Đây không có nghĩa người trẻ không muốn tham gia vào các cơ hội làm kinh tế. Ở Việt Nam đã có một số người trẻ hải ngoại sinh hoạt trong lĩnh vực kinh doanh. Một người bạn của tôi hiện làm việc trong lãnh vực công nghệ thông tin đang có kế hoạch về Việt Nam cộng tác, sau một vài chuyến đi tham khảo khả năng làm việc tại đây. Những dự án này góp phần giải thích sự thăng tiến trong việc đầu tư của Việt kiều vào lĩnh vực công nghệ thông tin ở Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ phần mềm. Bên cạnh đó, các lĩnh vực dược phẩm, hoá chất cũng đang nhận được sự tiếp trợ từ số tiền kiều hối mà trước đây thường nhắm vào thươmg mại nhà hàng, khách sạn hay du lịch. Tuy nhiên, theo chúng tôi thì số Việt kiều trẻ có dự định làm ăn Việt Nam vẫn không nhiều. Những người trẻ hải ngoại đa số cho rằng điều kiện làm kinh doanh ở nước ngoài thuận lợi hơn và họ e ngại phải đối đầu với những khúc mắc trong hệ thống luật pháp kinh doanh ở Việt Nam. Ngoài ra, vấn đề lương bổng chưa đủ sức thu hút nhiều người trẻ hải ngoại. Trong tham khảo của chúng tôi, hầu như tất cả các bạn trẻ có ý hướng cộng tác với tiến trình phát triển của Việt Nam quan tâm đến các lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội, và các dự án nhân đạo khác. Một số khác muốn sử dụng khả năng về công nghệ vi tính để giúp đất nước phát triển.

Tầm nhìn của giới trẻ gốc Việt ở nước ngoài
Thực trạng được diễn tả trên nói lên một số điều quan trọng về thái độ của người trẻ hải ngoại đối với quê nhà của họ. Thứ nhất, họ chưa coi Việt Nam như là nơi họ có thể “khai thác” để làm giàu. Tham khảo của chúng tôi cho thấy đa số những đầu tư của NVƠNN xuất phát từ thế hệ lớn tuổi. Trong đó, một phần đáng kể tham gia vào các dự án của gia đình họ hàng ở quê nhà, nhằm mục đích giúp người thân thăng tiến về kinh tế. Song trong khi lượng kiều hối mỗi năm lên đến hàng tỷ đô, thì trong mười mấy năm qua, vốn đầu tư của Việt kiều chỉ đạt được nửa tỷ đô – 300 trăm triệu đô theo luật đầu tư nước ngoài và 200 triệu theo luật đầu tư trong nước! Lý do có sự chênh lệch lớn này có nhiều lý do. Theo ông Nguyễn Ngọc Mỹ, chủ nhiệm CLB doanh nghiệp Việt kiều tại Việt Nam, ”Nếu nói khó khăn cụ thể thì nhiều. Tôi chỉ muốn nói một điều rất chung là mình chưa có quy định, quy trình thống nhất. Thí dụ trung ương cho tự do đầu tư nhưng mỗi tỉnh có một lệ riêng, nếu học hỏi được gì đó ở tỉnh Bến Tre, qua Đà Nẵng lại khác, không áp dụng được. Những lệ này không sai luật nhưng gây phiền phức và mất nhiều thời gian, nhất là Việt kiều hay bị ảnh hưởng về thời gian tính”. (VTVNews 11.1.2005) Bên cạnh đó, đầu tư vào Việt Nam, người trẻ hải ngoại phải tham gia vào một “trò chơi” mà họ chưa từng đối diện ở nước ngoài, ví dụ đương đầu với hệ thống luật pháp liên tục thay đổi ở Việt Nam, tệ nạn hối lộ… Một người bạn của tôi trong chuyến đi về Việt Nam để gặp đối tác đã phải nhiều lần đưa họ đến tụ điểm massage như một cách “ngoại giao” bắt buộc. Ở Mỹ phương cách làm ăn như thế này cũng ít khi xảy ra.

Thứ hai, mặc dầu làm kinh doanh ở Việt Nam chưa có sức thu hút giới trẻ ở hải ngoại, nhưng sự quan tâm của họ thường gắn bó với những đau khổ của đồng bào ở Việt Nam. Sự nghèo khó của người Việt ở quê nhà là động cơ lớn để họ nghĩ về việc tham gia vào các dự án nhằm phát triển xã hội Việt Nam. Theo chúng tôi, người trẻ ở hải ngoại không ưa chuộng lối gởi tiền cho người thân như thế hệ lớn đã từng làm. Tuy nhiên, họ cởi mở hơn trong việc tham gia trực tiếp các công trình lương thiện nhằm giúp đỡ sự phát triển của quê hương. Theo ý kiến của một số bạn trẻ, lý do là vì họ không có những mặc cảm với Việt Nam như những người trong thế hệ đi trước. Một trường hợp nói lên lòng nhân đạo của giới trẻ Việt kiều là nhân vật Jimmy Phạm, người Việt kiều Úc mà nhiều trẻ em đường phố ở Hà Nội gọi cách trân trọng là “đại ca” vì anh đã thành lập trung tâm dạy nghề Koto để tuyển những đứa trẻ lang thang hoặc có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn để dạy hai nghề: làm bếp và phục vụ quầy bar. Từ năm 2000 đến nay, trung tâm Koto đã đào tạo hàng trăm em và đã tìm ra việc làm ở các nhà hàng, khách sạn như Sofitel Metropole và Mediterraneo…. Ý tưởng trở về Việt Nam hoạt động giúp trẻ em nghèo khó đã xảy ra một cách khá ngẩu nhiên cho Jimmy Phạm trong một chuyến đi công tác tại Việt Nam năm 1996, và tình cờ gặp gỡ và trò chuyện với một số trẻ em đường phố. Chứng kiến cảnh khó khăn và đau khổ của các em đã thúc đẩy anh trở lại Việt Nam, đầu tư tiền riêng của mình, giao tiếp với những trẻ em đường phố, cũng như các tổ chức, quan chức chính quyền để lăn lộn xây dựng trung tâm Koto, đó cũng là một nhà hàng mà nhiều du khách quốc tế đã biết tới. Tuy nhiên, để thực hiện một dự án như Koto hoàn toàn không phải là dễ. Anh Jimmy tâm sự: “Nếu nói hai năm đầu như hoả ngục là còn quá nhẹ. Các em gặp phải đủ vấn đề: mang thai, bạo lực trong gia đình… Nhà của tôi bị cướp phá. Tôi bị theo dõi từng bước. Tâm trạng tôi luôn hoang mang, và tôi mệt mỏi về tâm lý lẫn thể lý”. Trường hợp này cho thấy để sinh hoạt nhân đạo tại Việt Nam tuy hầp dẫn giới trẻ Việt kiều, nhưng hoàn toàn không đơn giản chút nào.

Thứ ba, thế hệ người trẻ gốc Việt ở hải ngoại cho rằng tham gia vào các lĩnh vực phát triển xã hội không đồng nghĩa với việc hợp tác với chính quyền Việt Nam mà họ có những bất đồng căn bản. Một bạn trẻ hoạt động tại Việt Nam phát biểu: Chúng tôi thực hiện những việc này để cho Nhà nước thấy sự thiếu xót của họ trong việc chăm sóc cho người dân. Ngược lại, các lĩnh vực mà người trẻ ở hải ngoại quan tâm như phát triển kinh tế, trách nhiệm xã hội, gìn giữ nguồn gốc văn hoá…cũng không nên gây nhiều e ngại cho chính quyền đối với họ.
Thứ tư, hoài bão giúp đỡ người nghèo khổ tại Việt Nam xuất phát từ lòng nhân đạo trước hoàn cảnh của con người, không phải do sự chủ động của Việt Nam kêu gọi họ đóng góp. Thực ra, nhiều người trong họ đã có những ý tưởng tham gia mặc dầu họ chưa từng nghe lời mời gọi nào từ Việt Nam cũng như không biết gì về Nghị Quyết 36 của chính phủ. Mặc dầu nhiều người trong họ không có sự gắn bó với nguồn gốc cách trực tiếp, nhưng qua những gì họ nghe được và chứng kiến qua các bậc cha mẹ cũng có khả năng tác động vào cảm xúc và cách phản ứng của họ đối với quê hương. Vi, một bạn trẻ mới tốt nghiệp đại học trong ngành kinh tế chia sẻ: “Mỗi lần em nhìn những hình của người nghèo ở Việt Nam là em muốn khóc. Em muốn về Việt Nam giúp đỡ họ, nhưng mẹ em không cho phép vì sợ không an toàn”.

Kết
Không ai có thể phủ nhận rằng giới trẻ gốc Việt ở hải ngoại là một tài nguyên quý giá có khả năng giúp đỡ cho nước Việt Nam đi lên. Họ có khả năng trở thành nhịp cầu để giúp Việt Nam hội nhập kinh tế toàn cầu, hỗ trợ cho việc trao đổi hay truyền đạt kiến thức, tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào các nỗ lực nhân đạo, cộng tác vào sự giải quyết các vấn đề xã hội… Tuy nhiên, để lôi cuốn thành phần này đòi hỏi Nhà nước phải biết phân biệt giữa thành phần thế hệ trẻ và thế hệ đi trước trong cộng đồng NVƠNN. Giữa tháng 12, tôi đến xem một chương trình thi karaoke do Tổng hội sinh viên Việt Nam ở bang Illinois tổ chức. Trong chương trình có 3 bạn làm M.C. Tất cả đều nói bằng tiếng Anh, chỉ có Tuấn thỉnh thoảng nói vài câu tiếng Việt một cách khập khiểng. Xem cách diễn đạt, trình bày vấn đề, hướng dẫn chương trình, và lối sinh hoạt của họ, tôi tự nhủ rằng: Giới trẻ Việt Nam ở hải ngoại bây giờ không khác gì những người Mỹ ở đây. Thế nhưng khi những tiếng hát được giới thiệu, những “Mỹ con” đó lại cất lên những bài hát “Chuyện tình bên ao cá”, “Tình cha”, “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa”…. Nghĩ về điều này, tôi mới thấy rằng Nhà nước Việt Nam đang đứng trước một cơ hội thật hiếm có. Nhưng quan trọng là những người có trách nhiệm xây dựng chính sách quốc gia có đủ nhạy cảm để đáp ứng kịp thời những điều kiện thuận lợi để giới trẻ Việt Nam ở hải ngoại có thể tham gia vào nhiều dự án đang cần đến khả năng và tấm lòng của họ.


GIÃ TỪ MA TÚY

Đối thoại với Đinh Trí Khoa

Tôi gặp Khoa lần đầu tiên vào mùa thu năm 2002 ở một địa điểm cai nghiện ma tuý ở huyện TT, tỉnh BR-VT. Đây là một chương trình cai nghiện mà một số linh mục, tu sĩ trong đạo Công giáo đã tổ chức nhằm giúp các bạn trẻ thoát khỏi vấn đề với ma tuý. Những bạn trẻ tình nguyện đi cai được đưa vào bệnh viện để cắt cơn, sau đó đi tĩnh tâm và tiếp tục tiến trình cai bằng một thời gian bình phục ở một địa điểm xa thành phố. Ở đây các bạn trẻ sống và sinh hoạt trong môi trường trong sạch theo tinh thần là những anh em trong một gia đình. Hơn hai năm sau, tôi lại ngồi xuống với Khoa để tìm hiểu tiến trình hội phục của em. Trước đây tôi đã từng viết nhiều về tệ nạn ma tuý tại Việt Nam, đưa ra những vấn đề nan giải và những số liệu liên quan đến vấn đề. Song, chúng ta cũng cần nhìn xuyên qua những số liệu, những lý thuyết, chính sách để tiếp cận với các đối tượng trong tệ nạn. Tôi đã chọn Khoa cho cuộc phỏng vấn này vì theo nhận xét của tôi, Khoa là một bạn trẻ “bình thường”. Em là một người trẻ thành phố lanh lẹ, xuất thân từ một gia đình không giàu có, nhưng cũng không nghèo nàn. Em có cơ hội đi học, có nhiều bạn bè, có khả năng triển vọng. Nhưng chính cái “bình thường” này mới làm cho vấn đề giới trẻ lâm vào ma tuý tại Việt Nam trở nên khó hiểu, đặc biệt vì quá nhiều người trẻ trong tệ nạn cũng chỉ là những người “bình thường”. Bài này không phải là một bài nghiên cứu, nhưng chỉ là những gì ghi lại từ 4 cuộc nói chuyện trong thời gian 13 ngày kể từ ngày 8 tháng 1, 2005 đến ngày 21 tháng 1, năm 2005. Hy vọng qua bài này, chúng ta sẽ hiểu thêm phần nào về khuôn mặt và hình dạng của những người mà xã hội và giới truyền thông thường gọi là những “con nghiện”.


LNT: Chào Khoa
Khoa: Chào anh.
LNT: Chúng ta bắt đầu nhé.
Khoa: Dạ. Anh bắt đầu đi.
LNT: Hôm nay chấp nhận được phỏng vấn em thấy như thế nào?
Khoa: Em cảm thấy cũng vui vui, vì trước giờ có bao giờ vậy đâu. (Cười)
LNT: Vậy đây là kinh nghiệm mới đó. Có thể mình sẽ phải nói chuyện nhiều lần để chúng ta có thì giờ để bàn về nhiều vấn đề.
Khoa: Dạ. Không sao.
LNT: Dạo này nhìn Khoa thấy mặt có vẻ cũng tươi đó chứ.
Khoa: (Cười)
LNT: Năm nay Khoa bao nhiêu tuổi?
Khoa: Em 21.
LNT: Em sinh ra và lớn lên ở đâu?
Khoa: TP. Hồ Chí Minh.
LNT: Cuộc sống em lúc còn nhỏ như thế nào?
Khoa : Cuộc sống thì hơi khó khăn về mặt kinh tế. Nhưng về mặt tinh thần thì gia đình em có vẻ hạnh phúc hơn những gia đình khác. Nhưng chỉ hạnh phúc trong gia đình thôi. Còn mối quan hệ với họ hàng thì gay gắt lắm, nhất là mối quan hệ với gia đình bên nhà nội.
LNT: Trong gia đình em là con thứ mấy?
Khoa: Em là con út. Em có một người anh.
LNT: Em lớn lên thì bắt đầu đi học bình thường?
Khoa: Vâng. Em học rất khá.
LNT: Em kể thêm về đời sống đi học lúc còn nhỏ được không?
Khoa: Từ lúc mới bắt đầu đi học cho đến năm lớp 6, em là một đứa con ngoan, học giỏi. Qua đến năm lớp 7 trở đi thì em bắt đầu ham chơi hơn, nhưng chưa đến nổi tệ lắm. Chẳng hạn như rơi vào mấy cái tệ nạn xã hội. Đến năm lớp 10 thì phức tạp hơn, em bắt đầu ăn chơi đủ thứ. Cái gì em cũng biết hết. Và việc học của em cũng ngày càng lui dần. Cho đến lúc học xong cấp 3 thì em chẳng còn nghĩ đến tương lai gì hết, nhưng bên cạnh dó em cũng không quá phiền muộn về kinh tế gia đình. Em chỉ không nghĩ đến tương lai thôi chứ không có sa đọa gì hết.
LNT: Có biến cố gì đặc biệt vào năm lớp 7 đã làm cho em bắt đầu thay đổi?
Khoa: Năm lớp 7 thì em rơi vào một nhóm bạn quậy phá. Trong lớp cũng có những thành phần cá biệt và có lẽ trong lúc đó bản chất quậy phá trong em được khơi dậy, và như thế em đã xuôi theo. Em có những hành vi xấu này đến những hành vi xấu khác, và đặc biệt nổi cộm nhất là năm lớp 8. Từ năm lớp 8 em đã bắt đầu hút thuốc.
LNT: Tại sao em bắt đầu hút thuốc?
Khoa: Khi bắt đầu hút thuốc, em vẫn còn nhớ một người bạn rủ em. Em cũng tò mò hút thử. Em thấy cảm giác lâng lâng vì bị say thuốc. Em cảm thấy sợ cảm giác đó lắm. Mỗi lần em thấy bạn em hút thuốc là em tránh ra. Nhưng đến khi lần đầu tiên thử ma tuý thì thuốc lá đối với em là một người bạn. Em không cảm thấy sợ nữa mà lại rất thích. Em thường hay hút lén trong lớp với bạn ở trong trường và cả trong lớp khi thầy cô đang giảng bài. Và rồi thuốc lá trở thành một thói quen từ lúc nào không biết.
LNT: Em hút thuốc ở nhà ba mẹ có biết không?
Khoa: Lúc đầu ba mẹ không biết; nhưng về sau thì mẹ biết. Sau này ba em phát hiện và đôi khi ba thấy được, ba em chửi em. Nhưng mẹ em thì không chửi. Sau này khi biết em nghiện ma tuý và khi đi cai về xong thì thuốc lá em được tự do trong nhà, ngay cả trước mặt ba. Ba em đôi khi cũng mua thuốc lá cho em hút. Ba không nói đến thuốc lá nữa.
LNT: Khi lớn lên thì em nghe về ma tuý từ lúc nào?
Khoa: Từ năm lớp 8. Lúc này sáng sớm em thức dậy là đi chơi cho đến 12 giờ mới về nhà đi học. Học xong đến 5 giờ chiều, em lại chạy đi chơi bi-da cho đến 12 giờ khuya. Chỗ em hay chơi có hai người chủ là hai anh em cũng mới bắt đầu chơi ma tuý, và em đã nghe về ma tuý tứ lúc đó.
LNT: Vậy khi em nghe về ma tuý lần đầu tiên thì em đã phản ứng như thế nào?
Khoa: Em nghe đến nó thì cảm thấy cũng bình thường thôi, không quan tâm đến nó lắm, không tự mày mò tìm đến nó. Nhưng em bắt đầu mày mò khi được mời đi chơi ma tuý lần đầu tiên.
LNT: Lần đó xảy ra như thế nào?
Khoa: Lần đó là vào sáng Chủ Nhật. Em cũng lại đến quán bi-da chơi và gặp 2 người thanh niên trong xóm lớn tuổi hơn em. Em cũng biết đến 2 người đó đã từng chơi ma tuý. Hôm đó một thằng tên là Hiếu hỏi em: “Ê Khoa, đi chơi không?”. Em hỏi đi chơi cái gì? Nó nói là ma tuý và hỏi em có bao nhiêu tiền. Em nói chỉ có mấy chục thôi. Nó bảo: “Vậy thôi ngồi chơi với tao cũng được”. Em đồng ý đi. Và em đã chứng kiến hai đứa chơi ma tuý trước mặt em. Em cũng muốn biết nó ra sao lắm, vì mình nghĩ mình bỏ tiền ra đâu phải để cho hai đứa nó chơi không. Hai tụi nó thấy em có một cái nhẫn vàng trên tay và bắt đầu dụ em. Nó nói chơi một tí đi. Em đồng ý ngay vì em đang tò mò mà. Em chơi một bi lần đầu tiên. Em ói ra mật xanh mật vàng luôn. Nhưng sau 1 bi đó là bi thứ hai, em bắt đầu cảm thấy thích vì cảm giác lâng lâng của nó. Và em chơi cho đến hết cuộc chơi luôn.
LNT: Bi thứ hai đó là chơi ngay sau khi chơi bi thứ nhất?
Khoa: Dạ. Và mọi việc xảy ra liên tục như thế về sau này.
LNT: Khi chơi bi thứ nhất, bị ói như vậy tại sao tiếp tục chơi bi thứ hai?
Khoa: Vì sau bi thứ nhất thì cảm giác lâng lâng ập đến ngay, và tác dụng của nó làm em cảm thấy thích. Vì khi chơi cái đó hút thuốc rất ngon, ngon hơn khi mình hút thuốc lúc bình thường.
LNT: Lần chơi đầu tiên này diễn ra ở đâu?
Khoa: Tại một quán cà phê cũng không xa nhà em lắm. Chỗ đó chứa những người chơi ma tuý.
LNT: Trước đây em đã bao giờ tới những quán như vậy chưa?
Khoa: Chưa bao giờ.
LNT: Khi chơi xong, rời khỏi quán cà phê thì em đi đâu?
Khoa: Em trở lại quán bi-da và 2 người trong quán bi-da thấy biểu hiện của em như vậy biết là em đã sử dụng ma tuý, và 2 người đó bắt đầu tiếp cận em. Sau này thì em đi chơi với 2 người đó, ít đi với 2 thanh niên kia.
LNT: Rồi khi về nhà thì em cảm thấy như thế nào sau lần đầu tiên đó?
Khoa: Sau khi về nhà em cảm thấy sợ lắm, vì sợ ba mẹ nhìn thấy em như vậy. Nhưng em lại nhớ đến nó, và cứ đến Chủ Nhật em lại ra quán bi-da đó. Không chỉ riêng Chủ Nhật mà cả ngày thường nữa – lúc nào em cũng ra hết vì lúc mới chơi ma tuý thì ai cũng có nhiều tiền cả, rất dư.
LNT: Tiền đâu mà có để mua ma tuý, vì kinh tế nhà em không được tốt?
Khoa: Lúc mới chơi tiền mẹ cho em để đi học cũng có một ít, nhưng nó không đủ để mua cho nên mới rủ 2 người trong quán bi-da mua rồi chơi chung. Nhưng lúc nào có tiền thì em mua riêng.
LNT: Thời gian đầu em chơi một tuần khoảng mấy cữ?
Khoa: Ban đầu thì em chơi rất ít, nhưng về sau khi có nhiều bạn rồi thì một tuần chơi hết cả tuần, liên tục với những người khác nhau.
LNT: Mỗi lần chơi khoảng bao nhiêu tiền?
Khoa: Một lần chơi thường là khoảng 50.000. Còn những lúc sinh nhật bạn bè hay có dịp đi chơi mẹ cho tiền nhiều thì khoảng từ 200.000 trở về.
LNT: Thường em chơi ở đâu?
Khoa: Lúc mới chơi thì thường là em chơi trong quán karaoke, nhưng về sau thì thường về nhà bạn bè chơi, vì lúc đó tiền không còn dư giả để có thể vào karaoke nữa.
LNT: Lúc này thì em chỉ hít hay đã bắt đầu chích?
Khoa: Từ lúc mới chơi cho đến năm lớp 12 thì chỉ có hít thôi. Về sau khi tiền ít đi thì bắt đầu chuyển qua chích.
LNT: Lúc mới chơi em cảm thấy sợ bị chính quyền phát hiện không?
Khoa: Em không sợ bị chính quyền phát hiện mà chỉ sợ gia đình thôi.
LNT: Thời gian này mối quan hệ giữa em với ba mẹ như thế nào?
Khoa: Ba mẹ từ khi biết em đi chới quá nhiều thì khó hơn lúc trước. Nhưng cho đến khi biết em chơi ma tuý thì không con buông lỏng em nữa – đi đâu ba mẹ cũng hỏi và có khi còn theo dõi em nữa.
LNT: Từ khi em bắt đầu chơi tới lúc ba mẹ phát hiện là bao lâu?
Khoa: Khoảng 3 năm.
LNT: Tại sao lâu vậy?
Khoa: Vì em chơi rất kín, không để hé lộ điều gì. Không cho ba me thấy biểu hiện gì hết.
LNT: Nhưng trong 3 năm đó có bao giờ ba mẹ nghi ngờ không?
Khoa: Có, vì có nhiều người nói lại với ba mẹ rằng em chơi ma tuý với những người trong xóm, và ba mẹ bắt đầu nghi ngờ. Đôi khi ba mẹ cũng thử nước tiểu. Nhưng em qua mặt được hết.
LNT: Nhưng tại sao ba mẹ không tiếp cận em liền?
Khoa: Mới đầu ba mẹ chỉ theo dõi thôi, về sau ba mẹ nghe nhiều quá mới bắt đầu kiểm tra rồi test, cấm đi chơi, ít cho tiền lại.
LNT: Với các phương pháp trên của ba mẹ thì em đối phó như thế nào?
Khoa: Từ lúc ba mẹ ít cho đi chơi thì em lợi dụng thời gian đi học để đi chơi, rồi nói dối là đi học thêm. Nhưng chính lúc ấy em có thời gian để đi chơi. Còn về tiền bạc thì em không lo vì bạn bè em rất nhiều. Em thường xuyên có bạn rủ đi chơi, chứ không cần em rủ.
LNT: Trong thời gian này có bao giờ em làm gì phạm pháp để có tiền không?
Khoa: Mới đầu thì không có phạm pháp. Đôi khi có lấy tiền của người trong nhà thôi, chứ không có ra đường ăn cắp vì không thiếu thốn lắm. Nhưng từ khi nhà em bị ăn trộm ăn cắp, gia đình bên nội cứ đổ thừa cho em, nên em không bao giờ ăn cắp trong nhà nữa.
LNT: Từ lúc em bắt đầu chơi cho đến lúc em phát hiện mình bị nghiện là bao lâu?
Khoa: Khoảng 4 tháng.
LNT: Khi biết mình bị nghiện em thấy như thế nào?
Khoa: Em không suy nghĩ gì hết, cứ lo cắm đầu kiếm tiền. Nhưng có những lúc thấy khó khăn quá rồi em mới bắt đầu suy nghĩ: Tại sao mình cứ như vậy? Và tự trách, tự nhủ nên cố gắng hơn. Nhưng chỉ được một lúc cho đến khi cơn nghiện lên thì em lại không nghĩ gì hết.
LNT: Lần đầu tiên em có ý định bỏ ma tuý là lúc nào?
Khoa: Điều này xảy ra rất lâu từ lúc em bắt đầu chơi, khoảng 2 năm – lúc gia đình cấm đoán, không tin tưởng em nữa, em mất nhiều thứ như vật chất, bạn gái, và bạn bè. Lúc đó em mới suy nghĩ.
LNT:Lúc em chơi ma tuý em vẫn có bạn gái?
Khoa: Em vẫn có cho đến hết năm cấp 3.
LNT: Làm sao em tập trung vào bạn gái được?
Khoa: Em ít quan tâm lắm. Bạn gái chỉ là một cái gì đó trong lúc mình cô đơn hay buồn bã thôi. Bạn gái em cũng biết em chơi, nhưng về sau thấy biểu hiện của cô ấy là không muốn quen với em nữa.
LNT: Biết em chơi tại sao bạn đó lại muốn làm bạn gái với em?
Khoa: Vì khi em chơi ma tuý em có nhiều bạn lắm, và bạn của em toàn là thành phần nổi cộm trong trường, toàn dân có tiền, ăn chơi. Bạn gái em cũng cảm thấy thích vì mối quan hệ của em với những người khác, nên cũng theo em chơi vậy thôi. Thấy tụi em có nhiều bạn bè, đông vui, lại đi chơi nhiều nên muốn quen với em.
LNT: Em bắt đầu chơi từ năm lớp 8, làm sao em thi lên được tới lớp 10 nếu em bỏ bê việc học hành?
Khoa: Em học được khoảng 2 tiết là đến giờ ra chơi, em lại trốn ra ngoài đi chơi ma tuý. Nhiều người cũng thắc mắc sao em có thể lên lớp được. Khi dính vào nó, em lơ là lắm. Nhưng sắp đến kỳ thi là em học bài rất kỹ.
LNT: Có lẽ đó là lý do tại sao ba mẹ không nghi ngờ em nhiều thời gian đầu?
Khoa: Có thể là vậy. Tại vì thời gian em đi chơi ma tuý đa số là thời gian đi học. Sau này em ít khi xin đi chơi nên ba mẹ không nghi.
LNT: Thời gian này mối quan hệ giữa em với ba mẹ có tốt không? Em có hay chia sẻ với ba mẹ không?
Khoa: Tốt, vẫn vui vẻ bình thường. Nhưng về sau thì có vẻ không được như ban đầu. Ba em không còn quan tâm nhiều như trước nữa. Nhưng mẹ em thì ngược lại, quan tâm nhiều hơn.
LNT: Có bao giờ hai cha con lớn tiếng với nhau không?
Khoa: Không. Nếu ba em chửi em thì em im lặng.
LNT: Khi mẹ em phát hiện em chơi ma tuý thì mẹ em nói gì với em?
Khoa: Ban đầu thì mẹ em chửi, rồi hỏi vì sao lại chơi ma tuý. Rồi khuyên em hãy ráng ở nhà cai, và nhỏ nhẹ với em hơn.
LNT: Khi mẹ em khuyên ở nhà cai thì em trả lời như thề nào?
Khoa: Em cũng đồng ý, trước hết là làm cho ba mẹ tin tưởng mình và em cũng muốn dứt bỏ ma tuý lấy lại niềm tin của ba mẹ.
LNT: Trước khi ba mẹ phát hiện em đã bao giờ nghĩ là muốn bỏ chưa?
Khoa: Chưa. Vì lúc đó em chưa cảm thấy sợ. Từ lúc bị ba mẹ phát hiện thì em bắt đầu thấy sợ hơn, và đôi lúc nghĩ là mình sẽ phải bỏ.
LNT: Tại sao em lại thấy sợ hơn nếu ba mẹ biết?
Khoa: Vì từ hồi nhỏ em là một thằng con ngoan. Ba mẹ nói gì cũng nghe hết, không bao giờ em dám cải lại. Tự nhiên mình cảm thấy sợ thôi, không có lý do nào khác. Đó là tâm trạng tự phát sinh.
LNT: Vậy là lúc đó em đã quyết định ở nhà cai?
Khoa: Vâng. Lúc đó là giữa năm lớp 11.
LNT: Kinh nghiệm cai lần đầu tiên đó như thế nào?
Khoa: Em chỉ cảm thấy mình bị gò bó và khó chịu lắm, giống như là mình vừa bị cướp đi một người bạn thân thiết.
LNT: Lúc đó em có phải nghỉ học không?
Khoa: Không, em vẫn đi học. Nhưng ba em đưa đi rước về, không để em đi một mình.
LNT: Khi ở trường thì em có ý định muốn trốn học không?
Khoa: Có, em vẫn trốn học.
LNT: Vậy lần đầu tiên em cai được bao lâu?
Khoa: Khoảng 2 tháng. Nói hai tháng chứ thật sự không hẳn là cai, vì em vẫn chơi, nhưng ít hơn.
LNT: Sau 2 tháng đó thì em trở lại với mức độ như thế nào?
Khoa: Lúc ban đầu em nghĩ chỉ chơi một tuần 1 lần thì sẽ không nghiện. Nhưng bạn bè càng ngày càng nhiều cho nên ngày nào cũng có bạn tìm hết, và ngày nào cũng chơi. Riết rồi thành thói quen, cứ xúm vào là chơi. Nếu bình thường thì chơi theo bình thường, còn có tiền thêm thì chơi thêm và càng ngày càng lún sâu vào nó.
LNT: Theo em, nguyên nhân lớn nhất tại sao em không thành công lần đầu cai là gì?
Khoa: Là tại vì em không định hướng được và không xác định được là em muốn gì và cũng chưa có một biến cố nào thật sự lớn và gây ấn tượng để cho em dứt bỏ ma tuý.
LNT: Khi em trở lại chơi thì tâm lý em lúc đó như thế nào?
Khoa: Em chẳng nghĩ gì hết vì em thật sư chưa nhận ra tác hại của nó. Đến khi em cảm thấy mình bị mất mát quá nhiều rồi – bạn bè, vật chất, niềm tin của ba mẹ – và không còn đường cứu chữa nữa, em mới nghĩ về tương lai và những cuộc chơi của em, một tương lại rất mập mờ.
LNT: Nhưng khi đang chìm sâu trong ma tuý thì cái gì đã làm em “thức tỉnh” để nhận ra điều này?
Khoa: Em nhớ có một hôm em đang nằm phê một mình ở nhà, em nghĩ: Phải chi mình được bình thường như mọi người nhỉ – không bị vật vã? Vì lúc đó em rất sợ bị vật vã. Em mới cầu xin Chúa cho em một cơ hội để em có thể dứt bỏ được ma tuý. Và không lâu sau, em nghe đến chương trình cai nghiện PS (đã đề cập đến ở phần đầu). Em thật sự nôn nóng muốn đi để thay đổi mình.
LNT: Trước đây em có hay cầu nguyện không?
Khoa: Không.
LNT: Lúc đó tại sao em bắt đầu cầu nguyện?
Khoa: Vì lúc đó em biết em và gia đình không thể nào kéo em ra nổi nên chỉ cầu nguyện một cách bình thường. Giống như là lúc sắp chết thì người ta thường nói vài câu trước khi chết vậy thôi. Em không thật sự có ý cầu nguyện và cũng không tin lắm.
LNT: Em có thể kể lại một trường hợp mà làm cho em cảm thấy như mình đã tới đường cùng?
Khoa: Ví dụ ba mẹ không cho tiền. Khi biết mình bị nghiện nặng rồi thì không còn bạn bè nào đến chơi với mình nữa. Em thì không đi làm thì tiền đâu mà chơi. Có một lần em đã chịu không nổi và đã lấy cắp 1 chiếc xe đạp ở một game shop.
LNT: Còn mấy đứa bạn mà cùng chơi với em trước đây thì sao? Tụi nó đi đâu hết?
Khoa: Một số thì chơi một mình vì cũng nặng đô. Một số thì đi cai, còn một số thì bỏ được.
LNT: Lần ăn cắp xe đạp đó có phải là lần đầu tiên lấy đồ người khác không?
Khoa: Vâng. Sau đó thì em không bao giờ ăn cắp gì nữa. Chỉ 1 lần thôi.
LNT: Ăn cắp xong rồi thì trong người thấy như thế nào?
Khoa: Lúc đầu em cảm thấy hương phấn, nhưng về sau thì thấy tội lỗi.
LNT: Khi mới nghe về chương trình PS thì em có những ý tưởng gì trong đầu?
Khoa: Chỉ đơn thuần là trước hết nó có thể giúp em không bị nghiện ma tuý nữa, và mình không còn bị vật vã nữa. Đơn giản thế thôi.
LNT: Lúc này em đã tốt nghiệp chưa?
Khoa: Dạ rồi, và đang học trung cấp.
LNT: Sau khi cai lần đầu tiên thì em đã thử cai lần nào nữa chưa?
Khoa: Sau lần đầu tiên thì em không hề có ý nghĩ mình sẽ đi cai lần thứ hai hay thêm nữa.
LNT: Tại sao có những đứa bạn đi cai mà em không đi cai ở những nơi đó?
Khoa: Tại vì lúc đó em không muốn vào trường trại, vì em nghe nhiều điều làm em sợ. Nếu thật sự không có chương trình PS chắc là em cũng phải đi trường cai thôi.
LNT: Lúc này em đã chuyển qua chích chưa?
Khoa: Dạ chuyển qua rồi, khoảng 1 năm.
LNT: Vì sao chuyển qua chích?
Khoa: Vì lúc em đi chơi có một người bạn đi chung với em và người đó thường chích. Lúc đó vì hàng ít quá nên người đó nói em chích thử. Em cũng thử và cảm thấy thích vì cảm giác của nó mạnh hơn hít nhiều. Sau đó em chỉ hít lúc nào có nhiều tiền. Nhưng trở lại hít thì em cảm thấy chán, mất thời gian và cảm giác không được như chích. Cảm giách chích mạnh hơn gấp 2-3 lần.
LNT: Trước khi vào chương trình PS thì em làm gì?
Khoa: Em chỉ biết nằm ở nhà chờ đợi thôi. Em nôn nóng lắm, nhưng em phải chờ vì chưa đến khoá mới.
LNT: Thời gian chờ khoá mới em có tiếp tục chơi không?
Khoa: Có, chơi đến lúc đi cai thì thôi.
LNT: Thời gian này thì giữa em và ba mẹ có gì tốt hơn không?
Khoa: Không, càng ngày càng tệ. Vì em thường hay tìm cách để đi chơi. Nên khi không thấy em ở nhà là ba mẹ em chửi. Nghe ba me chửi thì em lại cảm thấy bực tức và không muốn nghe.
LNT: Em phải chờ bao lâu mới vào viện?
Khoa: Khoảng 15 ngày.
LNT: Lúc vào viện thì tâm lý em lúc đó như thế nào?
Khoa: Em cảm thấy thoải mái vì điều mình muốn đã đến.
LNT: Lần này so với lần thứ nhất cai thì khác nhau như thế nào?
Khoa: Hoàn toàn khác. Em cảm thấy thoải mái vì mình có được những người bạn đồng cảnh ngộ. Có những người giúp mình và được học hỏi thêm nhiều về ma tuý và rút kinh nghiệm nhiều hơn.
LNT: Thời gian trong viện có sự cố gì xảy ra không?
Khoa: Có. Đó là một buổi tối khi tất cả vào trong phòng. Phòng em gồm có em, Đ., S., T., anh C. và em của Đ. Khi đó tụi em được mấy seour cho ăn trái lê và tụi em mang vô trong phòng cất. Lúc đó có lẽ tụi em bị sảng thuốc và nghĩ là nếu vắt nước lê để chích thì có mùi giống như chơi hàng. Nên tụi em lấy một cái quần lót mới của một người và bắt đầu vắt và chích thử nước lê đó. Em chích đầu tiên, chẳng thấy có gì; nhưng tâm lý mình cứ nghĩ là mình đang “bê” nên cũng nói thấy có mùi. Mấy đứa khác kế tiếp em là em của Đ. (bị nhiểm HIV) rồi tới T., tới Đ., rồi lại tới tới em Đ., rồi tới S.
LNT: Lúc đó là ngày thứ mấy trong viện?
Khoa: Có lẽ là ngày thứ 3.
LNT: Kim đâu có mà chích?
Khoa: Kim đó là lúc trước khi vô viện có vài anh em chơi “phát ân huệ” mang vô.
LNT: Kim dễ mang vào vậy sao?
Khoa: Rất dễ.
LNT: Tới khi nào thì chuyện này bị phát hiện?
Khoa: Khi một y sĩ trong viện thấy tụi em đang loay hoay trong toilet.
LNT: Khi nào thì tụi em mới biết là em Đ. bị nhiễm?
Khoa: Khi tới dòng ĐMNN để tĩnh tâm mấy ngày trước khi đi hậu cai.
LNT: Khi nghe điều này thì em đã phản ứng như thế nào?
Khoa: Em thấy rất hoảng sợ và u sầu. Em không còn thiết nghĩ đến điều gì nữa, không nói chuyện với ai, không muốn ăn uống gì hết, và lúc nào cũng u buồn.
LNT: Tại sao? Vì em là người chích đầu tiên?
Khoa: Không phải. Tại vì có một người nói cây kim đó là của một người đã bị nhiễm cùng đi cai chung chơi rồi, rửa sạch rồi cất đi.
LNT: Thế thì những ngày tĩnh tâm ở dòng ĐMNN là những ngày rất khó khăn?
Khoa: Vì trong những ngày đó cũng có những cám dỗ nữa, và có một sự cố. Có một anh em mang được hàng vô. Lúc đó em đang ở ngay trong phòng tắm kề bên anh ta, và em biết chắc là anh ta đang mang hàng trong người. Lúc đó em đấu tranh không biết phải làm sao và em quyết định bỏ ra ngoài, không nói gì hết. Và em đã không dính dáng vào vụ đó.
LNT: Khi đã quyết định bỏ ra ngoài thì em cảm thấy như thế nào?
Khoa: Em cảm thấy thoải mái và nhẹ nhỏm hơn, và em thấy bình yên.
LNT: Những ngày ở viện và ở dòng ĐMNN thì ba mẹ có tới thăm không?
Khoa: Không, cho đến lúc đi hậu cai cũng không có ai được đến thăm
LNT: Những ngày đó em có hay nghĩ tới gia đình không?
Khoa: Có chứ, em cũng nhớ gia đình lắm. À, có điều này chưa kể trong viện. Trong thời gian ở đó, những ngày đầu em mệt quá nên em thường xin thuốc uống của bác sĩ, gọi là “thuốc sảng”. Khi uống thứ thuốc đó, nó không làm cho mình vật vã nữa, mọi hành động của mình diễn ra tự nhiên. Nhưng sau khi tỉnh dậy mình không thể nào nhớ được mình đã làm gì, giống như mình đi vào trạng thái hôn mê. Có một lần em đã uống quá liều và em mệt quá chịu không nổi và bị bất tỉnh gần 2 ngày. Bác sĩ phải vô nước biển cho em.
LNT: Khi ở ĐMNN tĩnh táo rồi thì em có suy nghĩ nhiều về cuộc sống của mình không?
Khoa: Có chứ, nên em muốn trước tiên phải rời thành phố một thời gian để nghĩ coi mình nên làm gì để tương lai tốt đẹp hơn. Và thế là em quyết định đi không suy nghĩ nhiều về gia đình nữa.
LNT: Lúc này tâm trạng của những bạn cùng chích trong viện như thế nào?
Khoa: Cũng hoảng sợ như em, nhưng em cũng không hiểu rõ họ đang nghĩ gì. Em đoán là chắc cũng giống em.
LNT: Đến lúc nào thì em mới biết được là mình không bị nhiễm
Khoa: Sau lần đi thử máu lần thứ 2. Lần đó anh D. (người quản nhiệm nơi địa điểm hậu cai và cũng là người nghiện trước đây) dắt em về sau khoảng 6 tháng.
LNT: Trong thời gian 6 tháng chờ đợi đi xét nghiệm em như thế nào?
Khoa: Em bình thường vì được mọi người khuyên bảo và an ủi, nên em không nghĩ đến nó nữa.
LNT: Lúc đó em có hình dung trường hợp mình bị nhiễm thì mình sẽ làm gì không?
Khoa: Có. Em nghĩ lúc đó chắc em không còn cần đến ai hay điều gì nữa. Chắc em sẽ sa đọa hơn.
LNT: Khi ba mẹ nhận được thông tin về sự cố ở viện thì họ đã phản ứng như thế nào?
Khoa: Ba mẹ cũng chửi nhưng không nhiều, chỉ trách móc thôi. Vì việc đã xảy ra rồi, đâu còn ngăn lại được.
LNT: Em nghĩ trong lòng của mẹ em lúc đó như thế nào?
Khoa: Em nghĩ chắc mẹ em lo lắm, và buồn bã, nhưng không biết làm gì hơn.
LNT: Thời gian này em có cầu nguyện để không bị nhiễm không?
Khoa: Có, em cầu nguyện rất nhiều.
LNT: Khi em nói với gia đình là sẽ đi hậu cai thì gia đình có vui không?
Khoa: Có. Gia đình vui lắm nhưng vẫn lo vì sợ em sẽ chịu không nổi rồi đòi về sớm. Ba mẹ khuyên em cứ đi một thời gian, nếu thấy buồn thì mẹ sẽ cho phép về mấy ngày chơi, chứ không nói chừng nào về.
LNT: Còn chi phí cho việc hậu cai thì gia đình xoay sở như thế nào?
Khoa: Lúc đó gia đình cũng thiếu thốn, nhưng cũng may là anh ruột của em còn đi làm nên cũng phụ giúp được chút ít.
LNT: Đến nay mình mới nhắc đến anh ruột. Anh của em và em có mối quan hệ như thế nào?
Khoa: Anh em thương em lắm, tuy ít nói. Nhưng em biết anh rất lo cho em.
LNT: Thời gian em mới bắt đầu chơi, anh của em không biết gì?
Khoa: Không, vì anh của em thường xuyên phải đi làm nên ít có thời gian ở nhà để tiếp xúc với em.
LNT: Vậy thì em ít có dịp để tâm sự với anh em?
Khoa: Dạ. Rất ít.
LNT: Thời gian ấy có bao giờ em ước gì có thể tâm sự với anh mình?
Khoa: Không, em không nghĩ gì hết vì anh của em cũng không thể giúp em được.
LNT: Vậy thời gian đó, em tâm sự với ai khi có chuyện buồn?
Khoa: Em không tâm sự với ai hết. Nhiều khi buồn em chỉ biết đi tìm hàng, chơi xong rồi chẳng nghĩ gì nữa.
LNT: Em có nghĩ nếu mình có người để tâm sự thì sẽ tốt hơn không?
Khoa: Nếu thật sự người đó có thể giúp em. Còn nếu tâm sự không mà không giúp được em điều gì, thì em cũng không nghĩ việc tâm sự đó có hiệu quả.
LNT: Em không dễ dàng tâm sự với ba mẹ?
Khoa: Dạ. Vì em không có thói quen đó. Nhưng em nghĩ nếu mình có người để tâm sự thì cũng có thể giúp mình nhiều hơn.
LNT: Từ ngày em đi hậu cai, em có cơ hội để tâm sự nhiều hơn với ba mẹ không?
Khoa: Không, vì ít khi ba mẹ lên thăm. Và khi lên thăm chỉ hỏi han sức khoẻ, hỏi em cảm thấy sao thôi. Chứ không tâm sự gì nhiều.
LNT: Vậy em có nghĩ là những người thân của mình hiểu được những gì trong lòng mình không?
Khoa: Em nghĩ là họ có thể hiểu nhưng không giúp được em. Điều này cũng đúng thôi. Em phải tự giúp em trước đã rồi mới tới họ.
LNT: Tại sao em nghĩ họ không giúp được?
Khoa: Vì nếu họ giúp mình mà mình không muốn cải thiện bản thân thì cũng như không.
LNT: Nhưng chắc chắn là những năm qua họ đã giúp mình bằng nhiều cách?
Khoa: Đúng. Nhưng những người giúp em chỉ đếm trên đầu ngón tay. Đó là người thân trong gia đình mà thôi. Còn bà con họ hàng cũng không màng gì tới em.
LNT: Em cảm thấy bất mãn với những người bà con?
Khoa: Có, em rất bất mãn vì chẳng có một chút quan tâm gì đến những người trong gia đình, họ hàng.
LNT: Theo em thì họ nên quan tâm như thế nào?
Khoa: Ít ra họ cũng nên thường xuyên thăm hỏi, lên thăm em chung với mẹ em, hoặc là tiếp đón em tử tế khi em đến nhà. Hay lâu lâu dẫn em đi ăn uống và tâm sự với em. Em chẳng thấy gì hết, bạc bèo lắm.
LNT: Trở lại thời gian hậu cai, thời gian này em thấy mình thay đổi như thế nào?
Khoa: Em thấy mình đã biết suy nghĩ cho tương lai và có những kinh nghiệm và một chút gì đó có thể vượt qua những thử thách.
LNT: Lúc ở đó, tâm trạng em có tự tin không?
Khoa: Có, tự tin lắm. Em về Sài Gòn một mình, giữ trong tay rất nhiều tiền nhưng em không bao giờ nghĩ đến chuyện đó.
LNT: Đi hậu cai bao lâu thì em mới về Sài Gòn lần đầu tiên một mình?
Khoa: Ngày 23 tháng 4, 2002 em đi hậu cai. Và lần về Sài Gòn thì khoảng 6-7 tháng sau đó.
LNT: Thời gian ở xa thành phố em có nhớ thành phố không?
Khoa: Có chứ, nhớ nhiều lắm.
LNT: Khi đang hậu cai có lúc nào em nhớ về ma tuý không?
Khoa: Không, không nhớ. Thật sự em không nhớ. Tại vì trên đó thời gian rất kín và có nhiều việc để làm, có nhiều bạn bè. Lúc nào cũng vui đùa nên em không có thời gian mà nghĩ đến nó.
LNT: Ở trong môi trường hậu cai, em đã có được những gì mà trước kia em không có?
Khoa: Em có được niềm vui trong sạch với những người trong sạch.
LNT: Đời sống tâm linh của em lúc đó như thế nào?
Khoa: Đời sống tâm linh của em bắt đầu hình thành. Em bắt đầu có đời sống tâm linh, em cảm nhận được những cái hay trong khi cầu nguyện. Em thấy cuộc sống và tâm hồn mình bình an.
LNT: Tính từ lúc lên tới lúc em bắt đầu có cảm nhận này là bao lâu?
Khoa: Khoảng 2 tháng sau.
LNT: Trong hai tháng đó, những gì cụ thể ở nơi hậu cai đã tác động đến em?
Khoa: Đó là tình thương của mọi người, của cha, seour, và các ân nhân khác. Họ là những người không quen biết mình nhưng lại thật nhiệt tình với mình. Nên em nhận ra được một điều gì đó từ tình người. Điều này làm cho em nghĩ thêm về tâm trạng của ba mẹ. Người không quen biết đã như vậy, huống gì là ba mẹ. Nghĩ như vậy nên em cố gắng hơn.
LNT: Sau những thay đổi ban đầu thì sau này em tiếp tục thay đổi như thế nào?
Khoa: Em thay đổi nhiều về mặt tính tình. Em có suy nghĩ chính chắn hơn, biết suy nghĩ về việc nên và không nên làm. Tuy nhiên, đó chỉ là bước đầu thôi vì sự suy nghĩ chính chắn ấy vẫn chưa được thể hiện qua hành động cụ thể.
LNT: Bắt đầu lúc nào thì em mới chuyển qua hành động?
Khoa: Khoảng chừng 5 tháng sau. Em cố gắng hơn trong mọi việc và sống vui vẻ hoà đồng hơn với mọi người – hơn thời gian mới đi hậu cai. Em cũng kềm nén bản tính ngang ngược háo thắng của em lại, mặc dầu đôi khi cũng bị bộc phát.
LNT: Ví dụ như thế nào?
Khoa: Ví dụ như hồi trước ai mà chơi em hay chửi em là em chửi lại liền. Còn bây giờ có người chửi em, em cũng bình tỉnh. Em không có giận hờn hay để trong lòng gì hết. Em bắt đầu suy nghĩ: Tại sao người ta chửi mình? Em bắt đầu tìm những nguyên nhân của việc đã xảy ra và em cũng không bao giờ hờn trách gì hết. Tính tình em thay đổi nhiều lắm.
LNT: Những người xung quanh có ai nhận ra sự thay đổi này trong em không?
Khoa: Có chứ, đặc biệt là ba mẹ vì cũng đã lâu em không về nhà. Nên khi về nhà thấy cách cư xử và ăn nói của em, ba mẹ em nói em thay đổi hơn trước nhiều, em ngoan hơn.
LNT: Em đã cảm thấy như thế nào trước nhận xét này từ ba mẹ?
Khoa: Em cảm thấy vui vì trong thời gian em đi hậu cai, em đã nhận được một điều gì đó giúp cho bản thân em.
LNT: Em có nói là đôi khi em vẫn bộc phát, em bộc phát ra sao?
Khoa: Đó là phản ứng của em sau những lời khiêu khích của mấy anh em khác. Em không chịu thua ai hết. Nếu ai đó thách em làm điều gì mà họ không dám làm là em làm liền.
LNT: Em có tìm cách khắc phục vấn đề này không?
Khoa: Có. Nhiều người nói với em tính tình như vậy không được nên em cầu nguyện mỗi ngày để cho em khiêm tốn lại. Và đã thật hiệu quả. Sau này hễ ai mà khích em, em không làm gì theo ý của họ hết. Em chỉ nói ngược lại: Sao những điều đó mày không làm mà lại kêu tao làm? Vì những điều mà anh em khác khích em chỉ toàn là những trò phá phách thôi.
LNT: Ví dụ?
Khoa: Gần nhà bếp có một cây điều, và có một cành điều rất to xệ xuống nhà bếp. Nếu cành điều đó đổ xuống thì chắc nhà bếp sẽ bị hư hỏng nặng. Lúc đó T. thách em: Đố mày dám chặt cành điều đó xuống! Em đang cầm cây đao chặt củi và em chơi luôn. Thế là nhà bếp bị cành điều đè, làm hư luôn giàn mướp. Nhưng sau này thì em không còn phản ứng như vậy nữa khi có người thách em.
LNT: Theo em thì sự trưởng thành này đến từ đâu?
Khoa: Em nghĩ từ những lúc phá phách rồi bị người khác phản hồi lại em mới bắt đầu suy nghĩ rằng điều đó mình làm là điều không hay. Từ đó em rút kinh nghiệm, và dần dần em đã hiểu ra.
LNT: Nhưng trước đây em cũng phá phách nhiều và ba mẹ cũng phản hồi. Tại sao em không chịu nghe?
Khoa: Lúc đó thì em không có nhiều thời gian để suy nghĩ. Tuổi trẻ còn bồng bột lắm. Trên TT, em có thời gian và không gian, môi trường tốt để cho mình suy nghĩ và rút kinh nghiệm liền, nên hiệu quả hơn lúc ở nhà.
LNT: Thời gian hậu cai, ngoài việc khắc phục tính nết, thách thức lớn nhất của em là gì?
Khoa: Đó là tìm ra cách để giúp mình thoát khỏi ma tuý.
LNT: Em có tìm ra được lối “thoát” không?
Khoa: Chưa tìm ra được cách nào, nhưng em đã thử một cách và cũng thấy có hiệu quả. Nhưng em vẫn còn mập mờ về cách đó lắm. Đó là mỗi lần em được về Sài Gòn, được anh D. tin tưởng giao tiền bạc để mua đồ hay chữa bệnh cho mấy anh em khác, thì em không bao giờ có suy nghĩ là mình sẽ bớt tiền để đi mua hàng chơi hay làm việc khác. Vì trước khi về đến Sài Gòn em thường cầu nguyện xin Chúa giúp cho em luôn được sạch và bình an trong khi đi làm nhiệm vụ. Đó là cách duy nhất hồi trước em áp dụng.
LNT: Từ lúc nào thì em được giao những trách nhiệm tương đối quan trọng?
Khoa: Từ lúc em hoàn thành mọi trách nhiệm trên đó cách tốt đẹp và làm hết sức mình. Sau này được giao những nhiệm vụ khác em cũng đã làm tốt. Vì thế em được giao nhiệm vụ cao hơn. Lần đầu tiên em về Sài Gòn, em được anh D. giao cho khoảng mấy trăm ngàn để đem Đ. và N. đi chữa bệnh. Lúc này em đã cầu nguyện để thi hành trách nhiệm tốt. Làm xong mọi việc, em vẫn con dư giã tiền bạc, nhưng em không hề nghĩ đến điều đó. Thật sự là cũng có những cám dỗ khi đi ngoài đường. Nhưng lúc đó em cầu nguyện: Lạy chúa con đang yếu đuối đây. Xin Chúa gìn giữ con. Và lúc đó em đã vượt qua.
LNT: Em đã đề cập nhiều về vấn đề cầu nguyện. Lý do gì thúc đẩy em cầu nguyện nhiều trong những tình huống này?
Khoa: Vì em nghĩ đơn giản là bây giờ em đang đi ngoài đường. Nếu em bị cám dỗ thì với bản thân em đã là một người nghiện thì khó mà vượt qua. Nên em chỉ biết cầu nguyện thôi. Cho đến lúc về đến nhà vào buổi tối, sắp đi ngủ em mới biết là mình đã vượt qua.
LNT: Lúc đó em có cảm giác như thế nào?
Khoa: Em thấy trong lòng mình vui lắm vì đã được bình an. Trước khi đi ngủ em cầu nguyện: Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì con đã được bình an. Xin cho con ngày mai cũng được sạch như ngày hôm nay.
LNT: Sau này em đã về SG tất cả bao nhiêu lần?
Khoa: Khoảng gần 10 lần.
LNT: Lần đầu tiên chắc rất khó, còn sau này thì sao?
Khoa: Sau này thì đỡ hơn. Mặc dầu trong lòng vẫn còn áy náy, nhưng rất là ít. Có lẽ Chúa ban sức mạnh cho em.
LNT: Những lần về thành phố mà không có sự cố như vậy đã giúp em như thế nào về sự tự tin?
Khoa: Em cảm thấy mình mạnh mẽ lắm và em cũng tiếp tục cầu nguyện vì em chỉ biết làm như thế thôi. Có lần em nhớ ngồi nói chuyện với anh ở trước cổng nhà TT, lúc em sắp về. Anh đã hỏi em có cách nào giúp mình vượt qua cám dỗ? Em nói là em đã có cách, đó là cầu nguyện. Lúc đó cầu nguyện là điều em cảm thấy hy vọng cho bản thân em nhất.
LNT: Ở hậu cai thì em có thay đổi nhiều, nhưng có những bạn khác thì không thấy có nhiều thay đổi, theo em thì lý do tại sao?
Khoa: Em nghĩ có lẽ họ đi hậu cai chỉ với mục đích trốn tránh hay là đi “nghỉ” gì đó thôi, nên họ không cố gắng để tìm mục đích để thay đổi.
LNT: Để họ có thái độ thật sự muốn thay đổi thì việc gì phải xảy ra để tác động đến họ?
Khoa: Có lẽ phải có một biến cố nào đó thật mạnh mẽ tác động đến đời sống của họ. Họ phải mất mát một thứ gì đó thật thân thương và quý mến họ mới nhận ra.
LNT: Trong đời sống của em, biến cố mạnh mẽ đó là biến cố nào?
Khoa: Đó là sau lần em tưởng em bị nhiễm HIV, nhưng không có. Em sợ quá. Em coi biến cố này như là một ân sủng vì quá nhiều lần có thể đưa em đến tình trạng bị bệnh, nhưng em lại không bị. Lần chích trong viện chỉ là một lần, còn thêm lần khác khoảng 3 tháng trước đó nữa.
LNT: Khi em biết mình không bị HIV thì em đã “quyết định” gì trong đầu?
Khoa: Khi em chưa biết mình có bị nhiễm hay không thì em đã cầu nguyện: Xin Chúa cho con được bình an, dù con phải là một người sống khổ hay khó khăn gì đi nữa.
LNT: Trong cuộc nói chuyện hôm nay, chúng ta bàn rất nhiều về việc “cầu nguyện”. Theo em thì sự nhận thức về tâm linh đã giúp em nhiều nhất trong thời gian hậu cai?
Khoa: Dạ đúng. Nhưng nó cũng khó lắm tại vì bản thân con người là ích kỷ và yếu đuối. Em chỉ biết cầu nguyện với Chúa mỗi khi gặp khó khăn. Còn khi vui vẻ thì chẳng màng đến, mình cứ ăn chơi rồi quên luôn những lời hứa mình đã nói với Chúa. Nên việc trau dồi tâm linh luôn bị dứt đoạn.
LNT: Em đã cố gắng trau dồi đời sống tâm linh của em như thế nào?
Khoa: Em thật sự chưa có hướng để trau dồi thêm tâm linh cho mình. Em luôn đọc kinh thôi, chỉ biết đọc kinh và xin Chúa và Mẹ che chở.
LNT: Tù lúc nào thì em cò ý định trở về thành phố?
Khoa: Từ lúc em bắt đầu suy nghĩ nhiều về bản thân mình và tương lai của mình. Và em đã quyết định về lại thành phố vào ngày 10 tháng 6, năm 2003, khoảng một năm sau khi đi cai.
LNT: Lúc đó em cảm thấy mình đã chuẩn bị đầy đủ để hội nhập cộng đồng?
Khoa: Em cảm thấy mình cần phải thử sức, chứ nếu không mình sẽ chẳng biết được mình có thể vượt qua hay không, hay là cứ trốn tránh nó hoài.
LNT: Trước khi về thì trong đầu em có kế hoạch gì?
Khoa: Trước tiên em sẽ đăng ký đi học tiếp, vì em chỉ mới tốt nghiệp lớp 12. Như thế thì xin việc làm thật khó. Nếu thu xếp việc học được em sẽ đi làm thêm.
LNT: Em định học về cái gì?
Khoa: Công nghệ thông tin
LNT: Về đời sống tinh thần thì em có kế hoạch gì không?
Khoa: Em chỉ biết cầu nguyện và cầu nguyện thêm thôi, chứ không có kế hoạch rõ ràng.
LNT: Khi đã khẳng định sẽ về thì trong lòng em lúc đó có những cảm giác gì?
Khoa: Cảm giác nhiều lắm. Thứ nhất là vui vẻ, lạc quan với những ý tưởng tốt đẹp trong đầu. Thứ hai là lo sợ không biết mình sẽ bị rớt lại hay không? Thứ ba là không biết gia đình có thật sự vui vẻ chập nhận để mình về hay không?
LNT: Em có nhớ ngày đầu tiên khi về lại với gia đình không?
Khoa: Em chỉ nhớ ít thôi. Khi em về gia đình vui vẻ đón em, và không quên những lời căn dặn trong bữa cơm gia đình.
LNT: Những ngày đầu tiên hội nhập thì em làm những gì?
Khoa: Em chỉ đi tìm trường để đăng ký học thôi, và tập tạ để giữ sức khoẻ. Em không đi chơi đâu hết.
LNT: Lúc nào em bắt đầu đi học?
Khoa: Khoảng 1 tháng sau khi em về, em đăng ký vào khoá trung cấp ngành công nghệ thông tin. Và em bắt đầu đi làm khoảng 6 tháng sau. Nhưng khi đi làm thì em vẫn tiếp tục đi học.
LNT: Trong 6 tháng đầu hội nhập với cộng đồng em thấy như thế nào?
Khoa: Đời sống lúc ấy thì hơi buồn, nhưng bình an lắm anh ơi. Sáng sớm dậy uống cà phê ở nhà, ăn sáng, đi tập tạ, đi học, rồi về nhà. Tối em học thêm Anh văn. Nói chung là không có thời gian để nghĩ ngợi lung tung.
LNT: Thời gian đó, giữa em với gia đình như thế nào?
Khoa: Rất tốt! Ba mẹ tin tưởng em, vui vẻ khi thấy em học hành và sống nghiêm túc.
LNT: Thời gian này, nguồn hỗ trợ về tinh thần cho em là ở đâu?
Khoa: Là gia đình và Thiên Chúa. Em thấy gia đình tin tưởng nên bản thân em cũng tự nhủ là mình nên phấn đấu. Đồng thời em cũng chỉ biết giữ vững bản thân bằng cách cầu nguyện, đó là cách duy nhất.
LNT: Nhìn lại thì em thấy sáu tháng hội nhập này có diễn ra như em mong muốn hay tưởng tượng khi đang chuẩn bị về không?
Khoa: Có. Tất cả đều diễn ra như em mong muốn và dự định. Nhưng em không ngờ đến lúc em lãnh lương lần đầu tiên sau khi em bắt đầu đi làm... Đã lâu em không cầm một số tiền như vậy, mà chính là tiền của mình nên em bị cám dỗ.
LNT: Em làm việc gì và mỗi tháng tiền lương em được bao nhiêu?
Khoa: Em làm nhân viên bảo vệ. Tháng đầu em được 700.000, tháng thứ hai được 800.000 đồng.
LNT: Nhưng đây không phải là lần đầu tiên em cầm nhiều tiền trong tay từ lúc em đi cai?
Khoa: Dạ, không phải. Nhưng hồi trước là tiền của người khác, em không thích đụng vô.
LNT: Em có nhớ cái cảm giác khi cầm tiền trong tay và bắt đầu suy nghĩ đến việc tìm ma tuý không?
Khoa: Có. Em thấy vui quá; nên sau khi đưa cho mẹ một nửa, em bắt đầu nghĩ là phải tự thưởng cho mình một cái gì đó. Vì em nghĩ là chơi một lần sẽ không có nghiện, nên em đã đi tìm nó.
LNT: Từ lúc em nghĩ về việc tìm hàng tới lúc em hành động là bao lâu?
Khoa: Trong khoảng 5 tiếng đồng hồ.
LNT: Trong thời gian 5 tiếng đồng hồ đó thì những gì diễn ra trong đầu em?
Khoa: Em chỉ suy nghĩ về việc tìm hàng, vì đã lâu em không biết gì đến tin tức ma tuý hết. Nên không biết chỗ bán hàng. Em mới liên lạc với thằng bạn cũ, và thế là những gì mong muốn đã xảy ra.
LNT: Thời gian này em không đánh đo gì hết về công sức của mình hơn một năm qua?
Khoa: Dạ không. Lúc đó sự cám dỗ quá mạnh, em chỉ nghĩ đến việc tìm hàng thôi. Trước khi về em có nghĩ đến việc sợ bị bạn bè cám dỗ, đó là điều em nghĩ đến nhiều nhất. Nhưng không ngờ cái mình không đề phòng là chính bản thân mình. Đi làm, có được tiền là bị cám dỗ bởi số tiền đó. Và em đã dùng tiền lương của tháng đầu tiên để đi mua hàng.
LNT: Nhìn lại thì em thấy có cách nào để ngăn chặn việc này xảy ra không?
Khoa: Có một cách duy nhất là chính mình phải vượt qua thôi. Nếu sự thật một người đã muốn chơi rồi thì có tiền hay không có tiền cũng có thể.
LNT: Nhưng chính mình vượt qua bằng cách nào?
Khoa: Mình phải tự chủ.
LNT: Trước đây em đã nói rất nhiều về việc cầu nguyện để Thiên Chúa giúp sức cho mình. Tại sao em không nghĩ tới việc cầu nguyện để ngừa trước những hành động không tốt khi cầm tiền trong tay?
Khoa: Dạ có chứ. Em có cầu nguyện. Nhưng nếu mình cầu nguyện mà chính bản thân mình không muốn vượt qua thì ai mà giúp nổi. Lúc đó em bị cám dỗ quá mạnh. Em cũng cầu nguyện, nhưng chính bản thân lại đi tìm đến ma tuý. Như vậy chắc chắn Chúa cũng không giúp mình được.
LNT: Lúc nãy em nói nếu em chơi lại một lần thì sẽ không bị nghiện; điều này có đúng không?
Khoa: Đúng, nhưng mình rất nhớ nó. Và mình cứ ỷ y là chơi một lần không nghiện, nên cứ chơi hoài.
LNT: Nhưng em có kiềm chế mình để chỉ chơi một lần thôi không?
Khoa: Có. Em nhớ có vài lần, em đã ngừng kế hoạch đi tìm hàng của mình và trở về nhà.
LNT: Vậy sau lần chơi đó, em không lập lại nữa?
Khoa: Đúng. Em ngừng rất lâu. Khoảng được 1 tháng. Và khi lãnh lương lần 2, em lại như vậy.
LNT: Ah, nhưng nếu 1 tháng sau, lãnh lương lại, rồi chơi lại, thì mình không thể nói là mình đã kiềm chế và chỉ chơi một lần thôi?
Khoa: Không. Trong thời gian giữa lúc lãnh lương đầu tiên và lãnh lương tháng thứ 2, cũng có những lúc em muốn đi tìm hàng; nhưng nghĩ vậy thôi, chứ em không hành động.
LNT: Rồi khi lãnh lương lần thứ hai, em đi chơi lại. Sau đó thì lúc nào chơi lần thứ 3?
Khoa: Em không nhớ rõ, nhưng cũng khoảng 2 tuần.
LNT: Rồi sau đó?
Khoa: Sau đó khoảng 1 tháng thì em bắt đầu chơi liên tục.
LNT: OK. Em có thấy em chuyển từ cách 1 tháng, tới cách 2 tuần, rồi bắt đầu chơi liên tục không? Việc này diễn ra với rất nhiều người khi họ chơi lại đúng không?
Khoa: Đúng. Ai cũng vậy.
LNT: Vì vậy, mình không thể nói là chơi một lần thì sẽ không nghiện? Tại vì có lần đầu mới tới lần thứ hai, mặc dầu lần thứ hai không xảy ra ngay lập tức, nhưng sớm muộn gì cũng sẽ tới?
Khoa: Đúng. Đã có lần 1 thì phải có lần 2. Vì những người nghiện luôn cảm thấy họ có thể khống chế được ma tuý. Nhưng họ sai lầm.
LNT: Em đã thành công khi kiềm chế được một vài lần trong tháng đầu, nhưng sau này thì khả năng kiềm chế của em không còn nữa?
Khoa: Dạ. Vì vậy nên em mới bị nghiện lại.
LNT: OK. Trở lại lần đầu tiên chơi lại. Khi chơi xong thì em cảm thấy như thế nào?
Khoa: Em thấy mình hơi tội lỗi, nhưng rồi em nói chuyện với một người bạn đi chơi cùng, nên cũng qua.
LNT: Lúc đó em có nghĩ tới việc tìm đến người nào để giúp mình không?
Khoa: Lần đầu, vì em còn kiềm chế được nên không nghĩ là nhờ người khác giúp. Nhưng những lần sau, khi bị nghiện rồi thì chỉ nghĩ đến gia đình thôi.
LNT: Em chơi lại bao lâu gia đình mới biết? Và biết được trong trường hợp nào?
Khoa: Chỉ có mẹ em biết khi em nói, và anh em biết. Ba em thì không biết.
LNT: Tại sao không cho ba biết?
Khoa: Vì nếu ba em mà biết em chơi lại ma tuý thì gia đình em chắc sẽ tan tành.
LNT: Tại sao chuyện đó có thể xảy ra?
Khoa: Vì ba em là một người sĩ diện. Với lại gia đình em đang sống chung với gia đình bên nội nữa. Nếu để gia đình bên nội biết em chơi lại thì mấy ông chú bác trong nhà sẽ khinh ba em lắm. Ba em rất nóng tính, cho nên thường hay chửi em và mẹ em mỗi khi thấy bực tức. Chẳng bao giờ dám nói người ngoài, nhưng cứ đè đầu em và mẹ em để chửi thôi.
LNT: Tính ba em như vậy có ảnh hưởng gì đến em không?
Khoa: Có. Em rất buồn vì ba em chẳng làm được gì cho gia đình em hết.
LNT: Em nói như vậy là như thế nào?
Khoa: Vì từ trước đến giờ trong gia đình em chỉ toàn có mẹ em lo thôi. Ba em đi làm đồng lương không đủ cho một mình ba em sài nữa, nói chi giúp gia đình.
LNT: Có lẽ ba em cũng bức xúc về vấn đề này nên làm ông nóng tính?
Khoa: Có lẽ vậy. Vì tính ba em là nhu nhược, chứ không phải là khiêm tốn.
LNT: OK. Khi mẹ em biết em chơi lại thì mẹ đã phản ứng như thế nào?
Khoa: Mẹ em khóc và buồn lắm, cũng chẳng biết làm sao nữa. Nhưng mẹ em sang Đền Thánh Giuse để xin khấn cho em, và khuyên em đi cai lần 2. Mẹ em nói là sẽ giấu không cho ba em biết.
LNT: Nhưng cuối cùng ba em có biết không?
Khoa: Cho đến bây giờ ba em vẫn không biết. Vì nếu ba em biết chắc bây giờ em không còn ngồi đây nói chuyện với anh.
LNT: Ồ thế à? Anh không ngờ là chuyện phức tạp đến vậy.
Khoa: Em sợ ba là vì em không muốn gia đình em xao xáo.
LNT: Vậy lúc nào thì em đã đi cai lần thứ 2?
Khoa: Đúng ngày 20 tháng 6 năm sau, 1 năm kể từ lúc em về lần đầu, sau khi chơi lại khoảng 4 tháng.
LNT: Khi em phải lên TT lại thì trong lòng em có những cảm giác gì?
Khoa: Em cảm thấy buồn và chán nản, vì tất cả những gì mình cố gắng đã mất hết – việc làm, việc học, bạn bè, gia đình.
LNT: Em đã vượt qua sự chán nản này như thế nào?
Khoa: Em buông trôi những suy nghĩ một thời gian. Và khi thân xác đã khoẻ mạnh, em bắt đầu lao động, suy nghĩ, và học tập lại.
LNT: Đi lần này có gì khác với lần thứ nhất không?
Khoa: Dạ khác, mỗi lần thêm một kinh nghiệm cho bản thân. Em rút ra kinh nghiệm là không nên xem thường ma tuý. Và tốt nhất là đừng nên châm vào nó nữa.
LNT: Lần này đi hậu cai, em có những nhận xét gì về bản thân mình không?
Khoa: Có. Em nhận thấy em thay đổi hơn lần đi cai trước rất nhiều. Em đã có thêm những kinh nghiệm cho bản thân về ma tuý, có thêm niềm tin ở Chúa. Và thấy mình trưởng thành hơn sau những cuộc chơi vừa rồi.
LNT: Lần này em đi tổng cộng thời gian bao lâu?
Khoa: Dạ 6 tháng.
LNT: Lần trước em đi khoảng một năm, lần này chỉ 6 tháng thôi. Em nghĩ thời gian như vậy đã đủ chưa?
Khoa: Em nghĩ có lẽ cũng tạm đủ.
LNT: Em trở về thành phố được bao lâu rồi?
Khoa: Được khoảng 2 tháng.
LNT: Hai tháng qua tinh thần em như thế nào?
Khoa: Em thấy ổn lắm, nhưng đôi khi cũng suy nghĩ lung tung. Vì thời gian này chưa có việc làm, nên chỉ phụ mẹ những việc làm ở nhà thôi.
LNT: Còn đời sống tâm linh?
Khoa: Em vẫn giữ việc đọc kinh cầu nguyện hằng ngày trước khi đi ngủ. Em vẫn nghĩ rằng có đời sống tâm linh tốt sẽ giúp mình chiến đấu với đam mê của mình với ma tuý.
LNT: Bây giờ em chưa có việc làm, nhưng sau này chắc chắn sẽ có. Em sẽ làm như thế nào để không rớt lại?
Khoa: Em cũng đang nhờ mọi người cho em thêm ý kiến trong thời gian này. Và em đang tìm phương cách để khắc phục.
LNT: Bây giờ anh sẽ chuyển qua một số câu hỏi hơi khác một chút. Thứ nhất, khi nhìn vào bản thân mình thì em đánh giá mình là một người như thế nào?
Khoa: Em thấy mình là một con người hơi tệ. Không biết trân trọng những gì mà người khác cũng như Ơn trên ban cho mình. Em xem nhẹ những điều đó quá. Đôi khi em cũng có nghĩ đến những điều mình gây ra cho người khác và cũng đã thay đổi nhiều. Bây giờ em khá hơn trước nhiều lắm. Bây giờ em còn biết nghĩ đến những điều đó. Chứ hồi trước thì em sống ít có tình cảm lắm anh à. Ngoài ra, em là một con người không có kiên trì, đôi lúc chỉ cố gắng nhất thời và đâu lại vào đó.
LNT: Theo em thì những ưu điểm của mình là gì?
Khoa: Ưu điểm của em là học và nhận biết nhanh, suy nghĩ nhanh lẹ. Chỉ đơn giản có thế thôi.
LNT: Kinh nghiệm với ma tuý đã dạy cho em những điều gì?
Khoa: Nó dạy em một bài học là không nên đùa với trò chơi tử thần này. Nó sẽ lôi mình giống như một cơn sóng kéo một người đang bơi từ từ ra biển khơi. Và lúc nhận biết điều đó thì quá muộn.
LNT: Nó đã dạy em những gì về cuộc sống?
Khoa: Nếu phải chọn lựa thì có 2 cái: một bên là những điều tốt đẹp nhất trong cuộc sống này là có gia đình, bạn bè, sự nghiệp. Một bên là sự lâng lâng bay bổng của ma tuý. Nếu chọn cái này thì phải bỏ cái kia. Còn thích cái nào lệ thuộc vào suy nghĩ của mình.
LNT: Kinh nghiệm của em với ma tuý đã dạy em những điều gì về Thiên Chúa?
Khoa: Nó dạy em biết Thiên Chúa là một Đấng vô hình, nhưng sức mạnh của Thiên Chúa tác động lên con người là hữu hình. Và em đã có thể cảm nhận được điều đó. Chúa luôn bên mình, đồng hành với mình trong mọi lúc.
LNT: Nhìn lại thời gian chơi ma tuý đến giờ, việc gì đẹp nhất đã xảy ra với em?
Khoa: Đó là em thoát khỏi những căn bệnh hiểm nghèo, không phải nhận lãnh một bản án tử hình.
LNT: Những cảm nhận và những bài học mà em có được từ kinh nghiệm với ma tuý có giá trị như thế nào?
Khoa: Nó có giá trị rất nhiều và ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống sau này của em. Em mới 21 tuổi, nhưng đã biết buồn vì thiếu gia đình, mất hết tiền bạc, xa bạn bè, người yêu, và những cảm giác buồn chán cũng như những khoảnh khắc một mình suy nghĩ. Đó là những điều mà một người như tuổi của em chưa hẳn bao giờ nếm được.
LNT: Như vậy thì kinh nghiệm em đã có với ma tuý không hẳn là một điều xấu?
Khoa: Đúng. Em không cho nó là xấu, vì nó giúp nhiều cho em sau này. Em biết điều đó cho con cái em, hay cho bản thân, hoặc gia đình, người thân em. Ít ra thì em cũng có những kinh nghiệm cần thiết khi một người nào đó cần sự giúp đỡ của em về việc này.
LNT: Với những gì em đã biết được khi vẫn còn trẻ thì bây giờ em nhìn cuộc đời như thế nào?
Khoa: Em nhìn cuộc đời rõ nét hơn. Cuộc đời thì tươi đẹp, nhưng mình có biết tận dụng nó không – đó mới là vấn đề. Khi mà dính vô cái này làm mất mát hết, em mới nhận thấy rằng: tất cả những gì xung quanh mình thì thật là tuyệt vời. Toàn là những người thương em, và toàn là những điều tốt đẹp họ mang đến cho em.
LNT: Còn ngược lại, em nghĩ cuộc đời “nhìn” em như thế nào?
Khoa: Em nghĩ cuộc đời rất công bằng. Nếu em thật sự nhìn nhận cuộc đời tươi đẹp và sống tốt đẹp thì em nghĩ cuộc đời sẽ nhìn em bằng một ánh mắt tốt đẹp.
LNT: Vậy em không e ngại khi đang phải đối diện với những thách thức rất lớn trong cuộc sống bây giờ và trong tương lai?
Khoa: Dạ. Đó là điều tất nhiên mình phải đón nhận. Không sớm thì muộn, nó sẽ đến với mình.
LNT: Hy vọng lớn nhất của em bây giờ là gì?
LNT: Là bỏ được ma tuý.
LNT: Ngoài việc bỏ được ma tuý thì em mong muốn những gì?
Khoa: Em mong muốn có một cuộc sống bình an và hạnh phúc.
LNT: Em có một câu danh ngôn nào mà em lấy làm triết lý sống không?
Khoa: Có. 2 câu. Câu thứ nhất: “Những con người có tâm hồn cao thượng luôn luôn nhận ra những điều tốt đẹp từ trong những biến cố đau thương của cuộc sống”. Câu thứ hai: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho”. Câu thứ nhất, như em đã nói: Sau khi mất mát mọi thứ em mới thấy và mới hiểu được nhiều điều tốt đẹp từ trước giờ diễn ra xung quanh mình. Câu thứ 2 là em đã cảm nhận được sức mạnh hữu hình của Thiên Chúa – Ngài đã giúp em thoát chết nhiều lần.
LNT: Từ nhỏ đến nay, ai là người đã ảnh hưởng đến em nhiều nhất?
Khoa: Mẹ em.
LNT: Để đi đến tương lai, hành trang của em bây giờ là những gì?
Khoa: Sự cố gắng và cố gắng trong mọi hoàn cảnh.

Chấm dứt vào 12h trưa ngày 21 tháng 1 2005

TRĂM NĂM KIỀU VẪN LÀ KIỀU:

Nguyên do và hậu quả của tệ nạn buôn phụ nữ, trẻ em qua biên giới

Kiều xưa, kiều nay

Thuý Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là nhân vật được biết đến rất nhiều trong nền văn học Việt Nam. Trong tác phẩm, tác giả miêu tả sự xung đột giữa tài năng và định mệnh mà nhân vật Thúy Kiều là nạn nhân của cái gọi là số mệnh ấy trong xã hội bất công và xấu xa lúc bấy giờ. Ngay cả một cô gái có thể nói là “mười phân vẹn muời” cũng không thoát khỏi vòng quay khắc nghiệt và thô bạo của xã hội. Đọc truyện Kiều, người thời nay cũng như xưa ai cũng ngậm ngùi xót thương cho số phận của nàng Kiều, một cô gái tài sắc tròn đầy, xuất thân từ một gia đình gia giáo lại phải đi bán mình cho Mã Giám Sinh nhằm mục đích chuộc lại người cha bị bắt oan. Không dừng lại ở đó, nàng Kiều lại bị ông chủ sang tay cho Tú Bà vào lầu xanh. Nơi đây, Kiều đã trở thành một mặt hàng kinh doanh cho bà chủ trong vòng 15 năm trước khi có thể trở lại quê hương đoàn tụ với gia đình và người yêu của mình. Mang trong người một quá khứ không mấy tốt đẹp dưới con mắt của xã hội thời bấy giờ, Thúy Kiều và Kim Trọng mặc dầu là vợ là chồng nhưng tình yêu theo nghĩa trang trọng nhất đã không còn.

Nguyễn Du đã viết lên câu truyện của nàng Kiều để phản ảnh thực trạng của đất nước trong những tháng ngày căm go do sự tranh giành quyền hành của các bè phái. Tuy nhiên, thực trạng được diễn tả trong câu chuyện của tác giả không chỉ là vấn đề của xã hội lúc ấy, nhưng nhìn từ một góc độ khác, nó vẫn là một vấn đề mang tính thời sự trong xã hội Việt Nam thời hiện đại. Nếu có sự khác biệt nào đó giữa nàng Kiều dưới ngòi bút của Nguyễn Du và các nàng kiều hôm nay, thì đó chính là việc các cô gái hôm nay phải kiếm tiền bằng việc bán rẻ mình ở xứ người. Họ có sắc, nhưng không có tài; chưa có cơ hội học tập, thậm chí chưa đủ khôn để hiểu tính chất của việc mình làm. Dù sao đi nữa thì Thúy Kiều còn có một sự lựa chọn, và hiểu được mục đích của việc bán mình. Nàng còn đủ sáng suốt để thấy được hệ luận sau này. Đến khi đoàn tụ với gia đình, nàng còn có một Kim Trọng yêu thương và nâng đỡ. Còn những nàng kiều ngày nay có quá ít chọn lựa. Và ở đoạn cuối con đường hầu như không có tia hy vọng nào ngoài những bệnh tật, nỗi nhức nhối trong thân xác và trong tinh thần. Và dường như họ khó có thể tìm thấy một ý nghĩa trong vận mệnh làm nguời.

Những nàng kiều thời đại là những phụ nữ, các em gái vị thành niên bị lừa bán ra nước ngoài để phục vụ cho ngành công nghiệp tình dục, hoặc làm vợ cho những người không thể lấy vợ ở quê mình, hoặc để làm lao động rẻ tiền. Tháng 3, năm 2004, cộng đồng người Việt hải ngoại sững sờ khi phát hiện tại “Chợ” eBAY
[i] có ba phụ nữ Việt Nam bị rao bán đấu giá, khởi điểm với giá 180.000 Đài tệ. Điều tra cho thấy ba phụ nữ Việt bị một người Đài Loan mang danh hiệu “mmm0052g” rao bán từ ngày 2 tháng 3. Trên trang web có 5 tấm hình của một người phụ nữ và 2 cô gái chưa tròn 15 tuổi. Thời hạn đấu giá là mười ngày, và người bán tuyên bố chỉ “chuyên chở hàng” về Đài Loan. Sau khi cộng đồng người Việt tại Úc và Mỹ phát hiện sự việc từ ngày 5 tháng 3 và đã gởi thư đến eBAY thì công ty này đã chấm dứt cuộc đấu giá, tạm ngưng quyền lợi của thành viên “mmm0052g”, cũng như giao cho công an Đài Loan những thông tin sẵn có để hỗ trợ cho việc điều tra hành động bất hợp pháp này.
Trường hợp rao bán phụ nữ đã làm cho nhiều người Việt phẫn nộ. Tuy nhiên, vấn đề buôn bán phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài là một tệ nạn đã xảy ra nhiều năm và vẫn đang tiếp tục tung hoành mà cộng đồng quốc tế cũng như nhà nước Việt Nam chưa tìm ra giải pháp bài trừ hiệu quả. Mỗi năm trên toàn thế giới có đến hai triệu phụ nữ, trẻ em bị bán để làm những những việc ngoài ý muốn. Chỉ riêng vùng Đông Nam Á, mỗi năm có đến 225.000 người bị lừa bán qua biên giới và bị cưỡng bức làm nghề mãi dâm, lao động, ôsin…. Tổ chức Quĩ Nhi đồng Quốc tế (UNICEF) ước lượng rằng trong vòng 30 năm qua, cả Châu Á có khoảng 30 triệu người đã trở thành nạn nhân của tệ nạn buôn người. Hiện nay tại khu vực ĐNA, tình trạng buôn người không những không có dấu hiệu thuyên giảm, mà còn có xu hướng gia tăng. Báo cáo của tổ chức này cho hay hết một phần ba phụ nữ, trẻ em các nước đang mở mang trong khu vực là đối tượng mà bọn buôn người nhắm đến. Ba năm qua, tỷ lệ trẻ mãi dâm ở Thái Lan tăng 20%. Xã hội Việt Nam cũng chiếm một phần đáng kể trong tệ nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài.


Tự lực cánh sinhTừ năm 1986, Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa để phát triển và hội nhập, đất nước liên tục chuyển mình, từ một xã hội khép kín lạc hậu trở thành một xã hội trên con đường đô thị hoá với một viễn tượng quốc tế. Trong nỗ lực biến chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung qua kinh tế thị trường, từ năm 1988 đến 2000, mức thăng tiến trong chỉ số GDP đạt trung bình 7,1%. Trước đổi mới, Việt Nam phải nhập khẩu gạo, nhưng đến đầu thập niên 1990 lại trở thành quốc gia xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới, và cuối thập niên 1990 thì Việt Nam trở thành quốc gia xuất khẩu cà phê đứng thứ nhì trên thế giới. Mặc dầu tốc độ thăng tiến GDP đã tụt xuống còn 5,8% năm 1998 và 4,8% năm 1999 do nhiều yếu tố nhiêu khê trong khâu quản lý kinh tế của nhà nước, nhưng năm 2000 thì chỉ số đã tăng lên 6,8%. Và những năm gần đây, chỉ số GDP đã lên tới trên 7%. Những thành quả về kinh tế cũng như tuổi thọ của người Việt đã tăng. Tuổi thọ trung bình là 69. Và tỷ số người mù chữ là dưới 10%. Điều đó cho thấy Việt Nam đã tiến rất xa so với tình trạng tồi tệ trước đổi mới, lúc đó Việt Nam nằm trong số 5 quốc gia nghèo nhất thế giới. Gần đây với các cuộc đàm phán tích cực đang diễn ra, Việt Nam có thể ôm ấp hy vọng sẽ được gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cuối năm 2005 để nhanh chóng hội nhập vào mạng lưới kinh tế toàn cầu.

Mặc dầu việc cải cải cách đã tạo cơ hội cho nhiều người nâng cao mức sống, nhưng những thay đổi quá nhanh chóng trong kinh tế và xã hội đã tạo nên những áp lực mới mà người dân chưa đủ khả năng để đối phó và thích nghi. Cụ thể, trên 1/3 người Việt vẫn đang sống trong cảnh đói nghèo, tình trạng ấy đã và đang gây sức ép trên các gia đình Việt Nam. Theo UNICEF, tuy Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, nhưng vẫn còn trên 36% trẻ em dưới 5 tuổi ở trong tình trạng kém dinh dưỡng. Các gia đình Việt Nam, mặc dầu có nhiều lựa chọn hơn trước đây, nhưng trách nhiệm của họ cũng phải gia tăng. Thời còn dưới chế độ bao cấp, cuộc sống tuy khó khăn nhưng tương đối ổn định. Nhưng hiện nay, hành lang bảo vệ không còn nữa, các gia đình phải tự lực cánh sinh, và gánh nặng bỗng trở nên chồng chất. Khoảng cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng gia tăng. Dĩ nhiên, những gia đình nghèo nhất và trẻ con thường là những nạn nhân của mặt trái của quá trình cải cách. Họ không thể nương nhờ vào Nhà nước nhưng phải tự trang trải những nhu cầu cần thiết như nhà cửa, y tế, và những nhu cầu căn bản khác trong đời sống. Sự phát triển nhanh chóng cũng đã khiến cho phụ nữ và các em gái trở nên dễ bị tổn thương và dễ dàng trở thành những nạn nhân của sự quên lãng, lợi dụng, và bóc lột. Họ phải đương đầu với nhiều vấn đề trong xã hội mà trước đây chưa bao giờ phải trải qua. Trong lịch sử văn hoá, xã hội Việt Nam, người phụ nữ luôn có vai trò quan trọng trong vấn đề kinh tế của gia đình. Một cuộc điều tra của UNICEF trước đây cho thấy phụ nữ là người quản gia của 27% các gia đình.[ii] Họ cũng là người phải đầu tư nhiều thời giờ nhất vào công việc của gia đình, từ việc nội trợ, đến việc chăn nuôi, trồng trọt. Điều tra cho thấy trẻ em gái phải gánh nhiều trách nhiệm trong gia đình hơn trẻ em trai, và còn tiếp diễn trong tuổi trưởng thành. Việt Nam chủ yếu có nền kinh tế nông nghiệp, mức đô thị hoá hiện nay chỉ đạt được 23%. Áp lực đối với việc sản xuất nông nghiệp ngày càng gia tăng làm cho trách nhiệm của người phụ nữ nặng nề hơn. Tuy nhiên, nghề nông thường quá vất vả và không đủ trang trải cho đời sống vật chất khiến họ phải tìm vào những môi trường làm việc khác để phụ giúp gia đình. Nhiều người quyết định di cư vào thành phố để tìm việc làm. Nhưng trong bối cảnh mới mà người phụ nữ Việt Nam phải lăn lộn để kiếm tiền, họ rất dễ rơi vào những tình trạng nằm ngoài khả năng kiểm soát của mình.

Thị trường buôn bán phụ nữ, trẻ em

Trên thế giới hiện nay chưa có một giải thích thống nhất về vấn đề buôn bán phụ nữ, trẻ em, và ngay cả ở Việt Nam cũng gặp phải sự mơ hồ trong từ ngữ và nhận thức. Nhiều người không rõ việc buôn bán phụ nữ, trẻ em được áp dụng vào những trường hợp nào do tệ nạn đa dạng gồm nhiều khía cạnh và tình huống. Có nhiều trường hợp vẫn có thể được xem như là buôn bán phụ nữ, trẻ em nhưng không liên quan đến việc xuất cảnh bất hợp pháp, ví dụ như một số trường hợp phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan hay là trẻ em Việt Nam trở thành con nuôi của người ngoại quốc. Song việc buôn bán phụ nữ, trẻ em không chỉ liên quan đến việc mãi dâm, nhưng rất nhiều trường hợp bị lừa vào các công việc lao động nặng nề, ép làm vợ cho một cá nhân hoặc tập thể, ép đi ăn xin…

Theo tổ chức Cấm Buôn Bán, Khai Thác Phim Ảnh Đồi Truỵ, và Buôn Bán Thiếu Nhi vào Đường Mãi dâm (ECPAT), việc buôn bán bao gồm tất cả các hành động săn người và chuyên chở họ trong phạm vi biên giới hay xuyên biên giới, có sử dụng những mưu kế lừa đảo, ép buộc, hay bạo lực, có liên quan đến gian lận hay làm việc trả nợ. Những người này bị rơi vào hoàn cảnh bị lợi dụng, bóc lột như bị ép vào công việc mãi dâm, làm việc trong hoàn cảnh như bị nô lệ, bị đánh đập hay những hành động thô bạo khác, phải làm việc nặng nhọc trong các xưởng hay trong các gia đình. Năm 2000, LHQ cũng đã đưa ra một giải thích tương tự như những điều vừa nêu trên.
Rất khó có thể khẳng định chính xác số phụ nữ, trẻ em Việt Nam bị bán ra nước ngoài hiện nay vì có nhiều lý do. Thứ nhất là phương pháp thu gom số liệu còn có nhiều khúc mắc dẫn đến sự thiếu rõ ràng cũng như do nhiều nạn nhân không dám trình diện và báo cáo về những gì đã xảy ra với họ. Ở đây có nhiều lý do, một phần do thái độ thiếu thông cảm trong xã hội đối với những người mãi dâm, cũng như đối với nạn nhân khi họ báo cáo về các trường hợp liên quan đến việc xâm phạm tình dục. Khi chính quyền địa phương phát hiện những đối tượng, họ thường bị đối xử như những người di cư sinh sống và hành nghề bất hợp pháp chứ không phải là nạn nhân đáng thương của nạn buôn người. Ví dụ, điều 29 trong bộ luật chống tệ nạn buôn người của Campuchia chỉ định rằng: “Bất cứ ngoại kiều nào vào vương quốc Campuchia bất hợp pháp bằng cách lén lút hay bị lừa đảo hay bất cứ cách thức nào trái ngược với những điều trong luật này, sẽ bị phạt 3-6 tháng tù, trước khi bị trục xuất”. Ngoài ra, các nạn nhân còn e ngại bị những người buôn bán trả thù, hay cảm thấy xấu hổ nếu bị gia đình hay người thân tìm ra sự thật về mình.
Phải thừa nhận rằng việc buôn bán nguời diễn ra trên diện rộng trong nước cũng như xuyên biên giới, trong phạm vi bài này, người viết chỉ đề cập đến nạn buôn người xuyên biên giới, đặc biệt để khai thác tình dục. Đây là một “công nghệ” siêu lợi nhuận vượt trên việc buôn bán ma tuý, hàng năm mức thu lên tới 7-12 tỷ đô-la Mỹ theo ước tính của chính phủ Hoa Kỳ.
Riêng ở Việt Nam, năm 1997, một thống kê cho thấy trên 70% những phụ nữ, trẻ em bị bán là bị đưa qua các nước Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, và Hồng Kông.[iii] Từ năm 1991 đến 2001, công an các tỉnh, thành phố đã phát hiện 2.260 vụ, bắt giữ 3.780 đối tượng phạm tội. Chỉ riêng 7 tỉnh, thành phố Lào Cai, Lạng Sơn, Hà Giang, Quảng Ninh, Bắc Giang, Hải Phòng, Thanh Hoá, cục cảnh sát hình sự sau một cuộc điều tra cho biết từ năm 1999 đến 2002, có 215 vụ bị phát hiện liên quan đến 344 đối tượng phạm tội. Có 796 phụ nữ, trẻ em bị lừa bán sang Trung Quốc, trong đó có 129 em dưới 18 tuổi. Theo ông Nguyễn Mạnh Tề, Cục phó Cục Cảnh sát hình sự, do Việt Nam có chính sách pháp luật cho phép người nước ngoài nhận con nuôi Việt, nhiều cá nhân, tổ chức đã cấu kết với các đối tượng môi giới trong nước để thu gom trẻ em, hợp thức hoá các thủ tục để trục lợi. Hàng trăm trẻ em đã bị bán cho người nước ngoài thuộc các nước Mỹ, Anh, Pháp, Canada, Thuỵ Sĩ, Bĩ…phần lớn là trẻ mới sinh, bị cha mẹ bỏ rơi ở bệnh viện, hoặc các trẻ con sinh ở nông thôn có hoàn cảnh rất khó khăn, cha mẹ không đủ khả năng nuôi dưỡng.[iv] Chỉ riêng năm 2002, theo báo cáo của tổng cục cảnh sát thuộc Bộ Công an cho thấy 1.088 người bị bán đi các nơi, trong đó 98% là phụ nữ, em gái; phần còn lại đa số là các em trai dưới 10 tuổi. Kết quả của khảo sát của bộ công an trên 16 tỉnh, thành phố trọng điểm cho thấy năm 2003 có đến gần 1.800 phụ nữ, trẻ em bị bán ra nước ngoài. Trong số đó, chỉ có 870 nạn nhân trở về. Những địa phương có phụ nữ, trẻ em bị lừa bán nhiều nhất là Thanh Hoá (473 người), An Giang (350 người), Nghệ An (180 người), Tây Ninh (116 người).[v] Trong số nạn nhân này, 80% có tuổi trên 18 và có 11 em chưa đầy 10 tuổi. Số liệu này không bao gồm tất cả các cuộc hôn nhân “hợp pháp” với đàn ông Đài Loan, tuy nhiên có nhiều nhận xét cho rằng vấn đề đó có nhiều yếu tố mang tính chất lừa đảo bán người. Song đa số các người am hiểu vấn đề cho rằng những số liệu trên còn quá khiêm tốn so với thực trạng hiện nay. Theo bà Lê Hồng Loan, Trưởng Phòng Bảo vệ trẻ em thuộc UNICEF, số lượng được báo cáo của Bộ Công an chỉ bằng 1/10 so với con số thực tế.[vi]

Nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em diễn ra theo năm tuyến chính: trong nước, bán cho Trung Quốc, Campuchia, bán sang Đài Loan dưới hình thức kết hôn với người nước ngoài, và bán sang các quốc gia Mỹ, Nhật, Pháp…dưới hình thức nhận con nuôi. Xét về Việt Nam như một nguồn cung cấp thì chúng ta thấy có thể chia ra thành hai vùng: các tỉnh, thành phố miền Bắc, và các tỉnh, thành phố miền Nam. Ở miền Bắc, các tỉnh dọc biên giới như Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Giang là những nơi những phụ nữ, trẻ em hay bị lừa bán qua Trung Quốc để làm vợ. Theo UNICEF, những người “chồng” Trung Quốc thường là dân nghèo, không ăn học, và trên 40 tuổi. Họ cũng thường mắc bệnh tật, vì vậy không dễ dàng tìm ra vợ ở nước họ, đặc biệt là trong lúc xã hội Trung Quốc đang gặp phải vấn nạn thiếu phụ nữ. Theo tổng thống kê dân số năm 2000, ở Trung Quốc nam thừa nữ thiếu, 118 nam đang khi đó chỉ có 100 nữ. Ngoài ra, các phụ nữ Việt Nam cũng bị bán qua biên giới để làm nội trợ, hoặc mãi dâm trong các quán karaoke, khách sạn. Lạng Sơn có đến năm huyện chạy dọc biên giới Trung Quốc kéo dài 253 km trong khi Quảng Ninh có biên giới giáp Trung Quốc kéo dài 170 km. Đến nay, không ai biết chính xác bao nhiêu phụ nữ, trẻ em đã bị lừa bán qua Trung Quốc. Nhưng cũng như những nơi khác, nạn nhân của sự lừa đảo thuộc thành phần nghèo, ít hay không có ăn học, và không biết gì về hoàn cảnh sống ở Trung Quốc. Một số di cư đến các tỉnh gần biên giới tìm việc làm và sau đó là bị giới buôn người lừa đảo với những lời hứa hẹn có công việc kiếm ra nhiều tiền ở Trung Quốc. Vì điều kiện vào Trung Quốc dễ dàng, khoảng cách không xa, và vì lòng mong muốn thoát khỏi cảnh nghèo nàn, họ dễ dàng bi mắc bẫy của giới buôn người. Một khi đã rơi vào cảnh bị bán, giấy tờ của họ cũng bị người mua giam giữ; họ không còn cách nào trở về và buộc phải trở nên người nô lệ trên đất khách quê người.
Miền Nam, các nạn nhân đa số đến từ các vùng đồng bằng sông Cửu Long và thường bị lừa bán qua Campuchia và các nước lân cận. Đa số các nạn nhân bị ép vào nghề mãi dâm, và một điều đáng chú ý là một số lớn trong các nạn nhân là các em gái chưa đến tuổi thành niên. Có những em bị bắt nhiều khi chỉ mới 8 hoặc 9 tuổi. Những năm gần đây, con số các phụ nữ từ các tỉnh phía Nam lấy chồng Đài Loan ngày càng tăng – trong đó đa số mang tính chất thương mại thông qua dịch vụ môi giới hôn nhân, và không ít trường hợp bị lừa đảo, kết hôn giả, bị bán lại nhiều lần và bị khai thác tình dục. Theo đại diện Văn phòng Kinh tế và Văn hoá Đài Bắc ở TP.HCM ông Ngô Kiến Quốc, hiện nay ở Đài Loan có gần 80.000 cô dâu Việt Nam. Dự tính khoảng hai năm nữa, con số này sẽ lên tới khoảng 100.000.[vii] Thời gian qua, đã có khoảng 20% các cuộc hôn nhân phải ly hôn.[viii] Ngoài các đàn ông Đài Loan còn có đàn ông người Singapore và Hàn Quốc cũng tìm đến Việt Nam để lấy vợ. Tháng 10, 2004, tờ báo Strait Times đưa tin rằng với một số tiền trên 10.000 đô, qua sắp đặt của môi giới, một người đàn ông Singapore có thể đến Việt Nam và chọn cho mình một cô gái làm vợ trong vòng bốn tiếng đồng hồ. Theo thống kê mới nhất thì ở Hàn Quốc, số cô dâu Việt Nam năm 2003 có 1.403 người, xếp thứ hai sau Trung Quốc (13.373).[ix]

Hiện nay phụ nữ, trẻ em Việt Nam bị bán tới nhiều nơi, nhưng phổ biến nhất là đến Campuchia và Trung Quốc. Có nhiều ước tính khác nhau tuỳ theo tổ chức thi hành việc quan sát. Tuy nhiên, theo đánh giá của UNICEF, Campuchia có khoảng 45.000 gái mãi dâm. Riêng người Việt Nam tại Campuchia có khoảng 5.000 phụ nữ, trẻ em, trong đó đến 30% ở độ tuổi vị thành niên. Tại khu “đèn đỏ” nổi tiếng ở làng Svaypak (Phnôm Pênh), có tới gần 20 nhà chứa với trên 300 phụ nữ, trẻ em gái Việt Nam hành nghề – phần lớn dưới 18 tuổi.[x] Lên mạng, chúng ta có thể tìm thấy những dịch vụ du lịch tổ chức đi đến đây để vui chơi thoả thích. Một trang web trên mạng tuyên bố "giá hiện nay cho một cuộc chơi ngắn là 5 đô, qua đêm là 20 đô, nhưng các cô gái thường đòi thêm. Ở Svay Pak, bạn có thể kiểm tra ‘hàng’ trước khi mua".
Tệ nạn buôn người qua biên giới là một hậu quả trực tiếp của sự nghèo khổ của các gia đình Việt Nam. Trong khi đổi mới đã giúp cho các thành phần có điều kiện trở nên giàu có, thì những người vốn đã nghèo khổ vì không có khả năng nắm lấy những cơ hội đổi mới, thì lại trở nên nghèo hơn. Nhà nước đã chưa thực hiện tốt chính sách xoá đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm cho người dân ở các tỉnh, và các vùng sâu vùng xa. Vì vậy mà lời hứa hẹn của giới buôn người trở nên như mật ngọt rót vào tai, đặc biệt là lúc những lời dụ dỗ đến từ những người thân quen, xóm làng. Vô số các phụ nữ, trẻ em bị lừa đảo không bởi tin tưởng vào lời dụ dỗ của người xa lạ mà chính những người cùng làng cùng xóm. Tháng 6, năm 2002 Nguyễn Thị Hoàng Yến và đồng bọn đã lừa được 18 cô gái Miền Tây và bán cho một phụ nữ ở Campuchia với giá 1,5 triệu/người. Trong 18 em gái này, ba nạn nhân đầu tiên chính là các em ruột của Yến. Tất cả những nạn nhân của Yến đều tưởng rằng mình sẽ được giới thiệu đến nơi có việc làm ở TP với lương 6-10 triệu/tháng. Sau khi đường dây buôn nô lệ tình dục của Yến bị công an phát hiện, thị đã bị TAND tỉnh Vĩnh Long phạt 30 năm tù.[xi]

Có những em gái bị bán với giá vài trăm đô. Tuy nhiên, có nhiều người còn bị bán với giá “bèo” hơn những nạn nhân của Yến nữa. Tháng 9, năm 2002, Trần Thị Hương đã dụ bé H. (sinh năm 1988) đi bán cà phê ở Phan Rang với mức lương 700.000 sau khi ăn ở. Hai em khác cũng đã bị lừa đảo với thủ đoạn trên. Kết cuộc, cả ba em đã bị bán qua Campuchia cho bà Ngọc, chủ nhà thổ, với giá 30 đô/người. Sau vụ này, Hương còn tiếp tục dụ dỗ và bán những em khác, trong đó có một em bị bệnh thần kinh. Mỗi người cũng được trả 30 đô.[xii]

Phụ nữ, trẻ em bán qua Trung Quốc xem ra ‘được giá’ hơn. Tháng 7, 2001, Lê thị Anh Tuyết, 27 tuổi, bị một nhóm buôn người lừa bán với giá 2.500 nhân dân tệ (khoảng 4 triệu đồng). Sau đó hai phụ nữ khác cũng bị bọn này lừa bán với giá 4.500 nhân dân tệ.[xiii] Năm 2001, Nguyễn Thị Huệ đã bị một người đàn ông Trung Quốc mua về làm vợ với giá 3.000 nhân dân tệ. Sau khi Huệ bị bán, bọn buôn người tiếp tục lừa con gái của chị qua Trung Quốc chơi với mẹ và cùng làm ăn. Rốt cuộc cô con gái ngây thơ này cũng đã bị bán ở Đông Hưng, Trung Quốc với giá 3.000 nhân dân tệ.[xiv] Số liệu cho thấy, thường thì giá tiền cao nhất cho một người là 3.000 nhân dân tệ; có nhiều nạn nhân khác bị bán với giá chỉ 1.000 nhân dân tệ.

Thủ đoạn tinh vi
Tệ nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới đã trở thành một vấn đề nhức nhối mà chưa có giải pháp hiệu quả. Thủ đoạn và tổ chức ngày càng tinh vi bao gồm nhiều khía cạnh và có sự phối hợp giữa các nhân vật trong đường dây. Và đường dây buôn người cung ứng cho nhiều mục đích khác nhau. Thông thường việc mãi dâm sẽ liên quan đến nhiều người và nhiều thủ đoạn hơn những công việc khác. Tổng hợp các trường hợp cho thấy một người bị lừa từ nơi sinh sống đến điểm bị cưỡng bức làm việc qua một tiến trình như sau.
Trong điều kiện chật vật, nghèo khổ của cá nhân và gia đình, các cô gái dễ dàng nghe lời giới thiệu đầy hứa hẹn về đồng lương từ một người thân hay đồng hương, nhưng ít có ai ngờ rằng người thân đáng tin cậy ấy chính là một mắt xích trong đường dây buôn người. Bởi lẽ họ không phải là người chuyên nghiệp, và công việc của họ không mấy mạo hiểm, nên người giới thiệu này sẽ chỉ nhận được phần ăn chia rất nhỏ. Các nạn nhân sẽ được giới thiệu tới một mối giúp phân phối việc làm. Người mối này cũng có thể là người quen hay đồng hương. Họ thường có việc làm ăn xuyên biên giới và nhiều khi có 2 quốc tịch hay giấy phép để cư trú ở hai quốc gia. Những người này cũng có thể đã từng làm các công việc mà các nạn nhân của họ sẽ phải làm. Sau khi gặp “hàng”, người mối sẽ thông báo công việc cho cô ta ở một nơi khác và họ sẽ đưa cô đến nơi đó. Đến lúc này thì mọi sự vẫn tốt đẹp và người con gái nhà quê không hề nghi ngờ có điều gì bất ổn.

Trên chuyến đi xuyên biên giới, các cô gái được hướng dẫn bởi những nhân vật phụ trách hành trình. Ở đây muốn nói về những người có trách nhiệm đưa các nạn nhân đến biên giới và những người đưa họ từ biên giới đến nơi làm việc. Những người này quan trọng vì họ biết cách đưa các nạn nhân đi mà không bị phát hiện. Khi đến nơi thì các cô bị sang tay cho một ổ chứa, khách sạn, quán café, hay một cá nhân nào đó. Khi ấy cô ta mới bắt đầu nhận ra dấu hiệu không may và hiểu được phần nào sự nguy hiểm đang chờ đón mình. Nhưng lúc đó thì đã quá trễ, vì cô ta đang một thân một mình trên đất khách quê người; giấy tờ của cô đã bị người mua thu giữ và cô trở thành một người hoàn toàn lệ thuộc vào sự điều khiển của họ.

Thường thì không cần nhiều thời gian để cho cô gái nhận ra công việc thật sự của mình là gì. Ngoài việc không có giấy tờ hợp pháp để trở về nước, ở nơi làm việc, cô ta luôn nằm dưới sự điều khiển và quản lý của người canh gác; vì vậy việc trốn thoát là khó có thể. Ở các ổ mãi dâm, người canh gác giới thiệu các cô gái đến khách, thương lượng giá cả, sắp xếp nơi ăn ở và áp dụng cách trừng trị khắc nghiệt nếu các cô không chịu hợp tác.

Ngoài các người quen, các trường hợp bị bán đứng bởi chính cha mẹ cũng không ít. Ở Campuchia, nhiều em bé bị cha mẹ đưa đến tận nơi để bán cho những tú bà. Một cô gái Việt Nam 16 tuổi bị mẹ bán trinh năm 1994 kể: Thời gian ở Campuchia tìm người bán trinh, mỗi ngày hai mẹ con phải đi nhiều nơi để “chào hàng”. Khi đến một cửa tiệm của một phụ nữ người Việt khoảng 50 tuổi, bà ta đã làm mối để bán trinh cho một người ngoại quốc với giá 500 đô. Sau khi bán xong, số tiền mà em nhận được từ bà ta là 200 đô.[xv] Số tiền nhỏ nhoi trên chắc hẳn sẽ được gia đình của em sử dụng cho việc hoàn trả một số nợ nào đó; hầu như tất cả các em bị cha mẹ bán hay khuyến khích đi vào công việc mãi dâm là do sự túng thiếu, nợ nần của gia đình. Ngoài ra, theo chuyên gia Vincent Dehon, giám đốc kế hoạch của tổ chức Oxfam tại Việt Nam, đa số trường hợp bán con ra nước ngoài bằng con đường di dân đều do quyết định của cha mẹ.[xvi] Thường thì người con trong gia đình phải hy sinh đầu tiên là con gái lớn. Điều tra cho thấy trong việc tìm kiếm những đầu mối trung gian để gả con ra nước ngoài không khó, có đến 70% trường hợp người dẫn mối là một người quen biết với gia đình. Tuy vậy gia đình thường nhận được một số tiền khá khiêm tốn trong khi người mối có thể giao người con đó lại cho người nước ngoài với giá lên đến 10.000 đô.
Để cho việc chuyên chở các nạn nhân đến nơi hành nghề êm xuôi cũng như để duy trì và phát triển công việc làm ăn, các lái buôn cần đến sự cộng tác ngầm của cán bộ nhà nước, công an. Sự cộng tác của nhiều cán bộ đã tạo điều kiện cho việc đưa người qua biên giới dễ dàng hơn và góp phần gia tăng nạn buôn nguời. Tuy không phải đầu tư nhiều nhưng họ lại tìm được nhiều lợi nhuận qua sự cộng tác bằng cách trở nên những tay sai của các con buôn, giúp họ bắt giữ lại các nạn nhân đang cố tìm cách trốn thoát. Trong những nỗ lực phá vỡ các đường dây hoặc tấn công các ổ chứa, có nhiều trường hợp không thành công vì chính những cán bộ công an đã báo cho các đối tượng trước khi sự việc diễn ra. Một số cán bộ còn trực tiếp tham gia vào hành vi buôn bán phụ nữ, trẻ em. Nhiều bản phúc trình đã khẳng định rằng tại Campuchia có nhiều cán bộ tham gia vào việc buôn bán người, hoặc ít nhất là sẵn sàng làm lơ để công việc buôn bán được thuận lợi.[xvii] Tại Việt Nam, năm 2000, Toà án Nhân dân tỉnh Ninh Bình đã kết án 12 đối tượng trong một đường dây buôn trẻ em. Đứng đầu đường dây này là Vũ Tiến Mạnh, một cán bộ cao cấp trong ngành tư pháp của tỉnh. Các đối tượng trong đường dây này đã làm giấy tờ lậu để bán 174 trẻ em cho người nước ngoài nhận làm con nuôi từ năm 1992 đến 1998.[xviii] Có nhiều du khách nước ngoài đến khu đèn đỏ Svay Pak cho rằng họ không mấy lo sợ bị công an bắt vì giới thi hành pháp luật đã được các tú bà tú ông “biết điều” trước rồi. Thỉnh thoảng nếu tiền bảo kê không giao đúng lúc, hay là nhà nước phải dùng một người nào đó để làm gương thì việc điều tra, tấn công mới xảy ra. Cuối tháng 8, năm 2002, do có một phái đoàn Liên Hiệp Quốc đến Campuchia nên chính quyền Campuchia đã chỉ đạo ngành công an kiểm soát và bắt một số đối tượng để lấy lòng khách, nhưng không ai dám nghĩ rằng chiến dịch sẽ duy trì lâu dài.[xix]


Du lịch tình dục

Đầu năm 2004, cảnh sát Campuchia cứu được 10 em gái người Việt khỏi một ổ chứa ở Phnôm Pênh. Cảnh sát cũng bắt được ‘mẹ mìn’ là một phụ nữ người Việt 29 tuổi tên Hồng. Trong 10 em được cứu, chỉ có hai em là 18 tuổi. Tám em còn lại đều dưới 15 tuổi. Đây là vụ lột mặt nạ lớn sau khi đã tấn công khu đèn đỏ Svay Pak vào tháng 3 năm 2003. Trong chiến dịch này đã cứu được 36 em gái, trong đó có những em chỉ 5 tuổi.
[xx] Theo một bài báo trong tờ UN Chronicle của LHQ, trong chiến dịch chống mãi dâm vào tháng giêng, 2003, khu này có đến 900 em gái người Việt hành nghề mãi dâm đến từ các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long.[xxi]
Người ta có thể khám phá ra điều này khi đi đến khu đèn đỏ Svay Pak, cách Phnôm Pênh 11 km trên một con đường đất. Theo cư dân trong khu vực Svay Pak, xã này được thành lập cách nay hơn 15 năm, khi chính quyền di dời nhiều người dân Việt từ khu chợ Nhỏ cách thủ đô chừng 6km để đi định cư tại Svay Pak. Từ một nơi định cư cho người Việt ở xứ chùa tháp, từ từ đã bị biến thành khu du lịch khai thác tình dục trẻ em.[xxii] Nhà báo người Anh Daniel Foggo đã kể lại kinh nghiệm của mình khi bước chân tới đây: Ở đây chỉ có một điều mà lôi cuốn du khách là hai bên đường toàn là những ổ chứa, trong đó những em gái chưa đến tuổi thành niên. Tới đây bọn làm cò, có người chỉ 12 tuổi, đi chào hàng không khác gì như đi bán kem. Họ chạy theo những du khách với những lời mời mọc: “Ông muốn gái trẻ không, bé gái không?”. “Ở đây giống như tiệm bán kẹo vậy. Ông không thích đứa này thì chọn đứa khác”.[xxiii] Nhưng lời chào hàng cũng có vẻ dư thừa vì hầu như du khách nào đến đây cũng chỉ có một mục đích duy nhất là thoả mãn nhu cầu dâm dục của họ với những bé gái. Chỉ trừ khi du khách vẫn im lặng trước lời mời mọc của họ thì họ mới giới thiệu các em trai.
Ngoài những nhân vật buôn bán phụ nữ trẻ em mà chúng tôi đã đề cập tới, một thành phần quan trọng góp phần cho tệ nạn này ngày càng gia tăng ở Campuchia cũng như Thái Lan là những du khách đến đây để làm những điều không mấy dễ dàng tại đất nước của họ do sự kiểm soát chặt chẽ của luật pháp. Ở các quốc gia như Pháp và Anh, việc công dân đi ra nước ngoài với mục đích tình dục với trẻ em là bất hợp pháp và sẽ bị khởi tố nếu bị phát hiện. Nhưng luật pháp đã không ngăn cản được, các đối tượng sẵn sàng vượt hàng ngàn dặm để tìm đến các bé gái để thoả mãn nhu cầu dâm dục. Ngành du lịch Thái Lan hái được 10 tỷ đô mỗi năm, chiếm 5% của GDP nước này, trong đó có một phần đáng kể từ ngành du lịch tình dục. Tại Campuchia, những năm gần đây, ngành du lịch đã xếp hàng đầu trong những ngành phát triển nhanh nhất. Ở đây, luật pháp cho phép quan hệ tình dục với đối tượng không dưới 15 tuổi. Tuy đó là một tuổi còn rất trẻ so với lứa tuổi cho phép ở Tây Phương là 18, nhưng nhiều du khách vẫn thích hành lạc với các em gái trẻ hơn. Và như thế tuổi của các em gái cứ thế trẻ dần để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, có khi có em chỉ mới 7 tuổi cũng đã bị bán.
Để phát triển, ngành du lịch tình dục và những du khách tham gia thường lợi dụng tình trạng mà có du khách gọi là môi trường còn “hỗn loạn” vì kinh tế nghèo nàn, luật pháp lỏng lẻo, hệ thống chính trị thiếu ổn định, và tệ nạn tham nhũng trong giới chức quyền tràn lan. Trong tình trạng đó, việc mua dâm với trẻ em diễn ra dễ dàng và ít khi bị kiểm soát. Nếu bị bắt, vài trăm đô là đủ để phóng thích. Vì vậy, mặc dầu ngành công an Campuchia ra tay tấn công khu đèn đỏ Svay Pak đầu năm 2003, nhưng bây giờ du khách tìm đến địa điểm này vẫn nhận được những lời chào hàng từ các bọn ma cô. Và Campuchia nói chung vẫn là thiên đường cho các du khách có nhu cầu “chơi” (thuật ngữ mà chính họ sử dụng) với trẻ con. Tháng tư, năm 2004, chương trình thời sự nổi tiếng Dateline của hảng truyền hình NBC ở Mỹ đã thực hiện một chuyên đề về tình trạng buôn bán phụ nữ, trẻ em ở Campuchia. Lời mở đầu của bài phóng sự như sau: “Đây là một điểm du lịch kỳ lạ, với những thành phố cổ, những màu sắc rực rỡ, những ngôi chùa huyền thoại, với vẻ đẹp tuyệt diệu – và những tội phạm kinh hoàng đang diễn ra đàng sau những cánh cửa đóng kín. Trẻ em, có em chỉ mới 5 tuổi, đang bị bán làm nô lệ cho nghề mãi dâm. Đây là một bí mật xấu hổ đã gây được sự chú ý của thế giới và Nhà Trắng.”
[xxiv]
Cũng trong chương trình này, phóng viên Chris Hansen chia sẻ cảm tưởng như sau khi ông ta cùng nguời cầm máy quay Mitchell Wagenberg thực hiện cuộc điều tra bằng cách mạo diện hai khách hàng đi vào một ổ chứa và phải đối diện với các bé gái:

Tôi ngồi đối diện với một em gái trên chiếc nệm lệp xệp của nhà chứa, em cho tôi hay em 9 tuổi. Em nói với tôi ‘yum yum’ để ra hiệu hành động phục vụ bằng miệng. Để làm rõ ý hơn, em bé 10 tuổi đứng bên cạnh dùng tay và miệng mình để biểu diễn việc sẽ làm. Thật vậy, chúng mời mọc tôi bằng những nụ cười. Chúng thông thạo cách làm và bảo chúng tôi rằng nếu chúng tôi không hài lòng thì khỏi phải trả tiền. Tôi đã từng thực hiện phóng sự về các vấn đề vận chuyển ma tuý, mua bán vũ khí, khủng bố, tham nhũng chính trị, và các tổ chức tội phạm. Tôi đã rơi vào một số tình huống khó xử. Nhưng không gì so sánh được với lúc đối diện các em bé này, đặc biệt là lúc chúng vượt qua khoảng cách mong manh và sờ vào vùng nhạy cảm của chúng tôi với những bàn tay nhỏ xíu của chúng. Tôi và Mitchell Wagenberg nhìn nhau với ánh mắt kinh hoàng, không thể tin nổi chuyện vừa xảy ra. Chúng tôi phải nghĩ ra bước tiếp theo để các em bé và tú bà của chúng phải nghĩ rằng chúng tôi là những người đi săn lùng tình dục với các bé gái. Nhưng lúc đó tôi chỉ muốn ẵm các em lên và đưa chúng ra khỏi cơn ác mộng này. Tôi nhìn các em cười và bỗng nghĩ đến những đứa con gái của tôi. Tôi có cảm giác muốn bật khóc.
[xxv]

Một điều cần nhấn mạnh ở đây là du lịch tình dục chỉ là bề nổi của vấn đề. Không chỉ người nước ngoài đến Campuchia, Thái Lan để mua dâm. Thực ra, đa số khách hàng của các ổ chứa là người địa phương, trong đó không ít là thành phần cán bộ nhà nước. Tại Thái Lan, nghiên cứu cho thấy đa số đàn ông quan hệ tình dục lần đầu tiên là với gái mãi dâm, có tới 95% đàn ông trên 21 tuổi đã có hành vi mua dâm.
[xxvi] Trong quân đội nước này, một khảo sát cho thấy trong thời gian 6 tháng ngay trước khi thực hiện cuộc thăm dò có đến 81% thành viên có hành vi mua dâm.[xxvii] Một khảo sát khác cho hay 73% thành viên quân đội quan hệ tình dục lần đầu tiên là với gái mãi dâm, và 97% thành viên thường xuyên có hành động mua dâm.[xxviii] Tuy tại Việt Nam không có những thống kê chính xác, nhưng quan sát cho thấy vấn đề tương tự cũng đang diễn ra đối với tệ nạn này. Vụ án xảy ra với nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Thể dục Thể thao bị phạt 8 năm tù với tội hiếp dâm trẻ em là một sự việc khiến dư luận xôn xao: có phải đây là một trường hợp cá biệt hay là một điển hình nói lên những gì đang xảy ra trong giới lắm quyền lắm tiền hay không? Theo một khảo sát năm 1998, có đến 2/3 cán bộ nhà nước mua dâm ở các ổ chứa, tụ điểm massage, karaoke…với tiền lấy từ công quỹ.[xxix] Trong một bài báo của tạp chí tiếng Anh Vietnam Investment Review, bà Nguyễn Thị Huệ, nguyên chủ nhiệm của Uỷ ban Phòng chống tệ nạn của Bộ Lao động, Thương binh, Xã hội đã phát biểu rằng, tình trạng mãi dâm hiện nay rất nghiêm trọng và được tổ chức cách tinh vi trên phạm vi cả nước, một phần là để phục vụ các cán bộ nhà nước. Theo bà, trong số khách hàng của những tụ điểm bia ôm có đến 70-80% là thành phần cán bộ. Bà Huệ cho rằng đây là những cán bộ thiếu đạo đức vì họ phải ăn cắp tiền nhà nước để giải trí đồi truỵ. Với số cán bộ quan chức tham gia vào tệ nạn mãi dâm đông đảo như vậy thì làm sao họ có thể có đủ nhiệt huyết để bài trừ chính vấn đề mà họ phải huỷ diệt?[xxx] Trong những năm qua, chính quyền ở cấp trung ương lẫn tỉnh, thành đã có những quy định kỷ luật những cán bộ, công nhân viên chức đi hát karaoke ôm, bia ôm, hay mua dâm ở những tụ điểm massage, nhưng tình trạng vẫn đâu lại vào đó. Tháng 10, năm 2004, Thủ Tướng Phan Văn Khải lại phải ký thêm một nghị định, trong đó, cán bộ, công chức nhà nước hoặc người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân vi phạm luật lệ phòng, chống mãi dâm sẽ bị phạt tiền, bị thông báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý, xử lý kỷ luật.[xxxi]

Hậu quả

Hậu quả gây nên do tệ nạn buôn người và mãi dâm ảnh hưởng đến các nạn nhân cũng như toàn xã hội. Trước tiên, những người trực tiếp gánh chịu hậu quả là các nạn nhân, đặc biệt là những nạn nhân bị ép vào nghề mãi dâm. Mỗi ngày các cô gái phải phục vụ nhiều người khách, có lúc trên 10 khách. Hầu hết các cô gái cũng như những người khách không sử dụng các phương pháp ngăn ngừa những căn bệnh lây nhiễm dẫn đến tình trạng lây lan HIV và nhiều căn bệnh khác, trong đó có những vấn đề liên quan đến việc sinh sản của phụ nữ. Campuchia là nơi có tỷ số các cô gái mãi dâm bị nhiễm HIV cao nhất vùng ĐNA. Năm 1997, TTCN cho hay trong 50.000 cô gái mãi dâm ở đây, 40% đã bị nhiễm HIV.
[xxxii] Nhiều tụ điểm mãi dâm buộc các cô phải quan hệ với khách mặc dù họ không đồng ý sử dụng phương pháp bảo vệ. Và họ cũng không được dạy cách thuyết phục các người khách sử dụng phương pháp ngừa bệnh. Nhiều cô gái do bắt đầu quan hệ tình dục sớm đã ảnh hưởng đến sự phát triển của các bộ phận như ngực, tử cung... Hành nghề mãi dâm, các cô gái không thể tránh khỏi những trường hợp có thai ngoài ý muốn. Phá thai là điều tất nhiên trong các trường hợp trên; tuy nhiên, đây không phải là chuyện đơn giản và không ít vụ phá thai đã gây thiệt mạng hay nguy hại cho sức khoẻ của các cô gái này.
Những hậu quả về sức khoẻ không chỉ do tính chất của công việc mà còn do môi trường các phụ nữ, trẻ em phải làm việc. Tất cả các nghiên cứu đều cho thấy ở mọi nơi, các nạn nhân luôn bị lợi dụng, đe dọa và đối xử thô bạo. Đối với nghề mãi dâm, ở các ổ chứa, những cô gái thường ngồi thành hàng, mỗi người mang một bảng số cho khách nhìn và lựa chọn. Có nơi thì mỗi cô có một phòng riêng để phục vụ khách, những nơi khác 3-4 người phải sử dụng một phòng. Thường thì những phòng này không có cửa sổ, tối tăm, thiếu vệ sinh và chỉ có một chiếc giường cũ kỹ. Ở Campuchia cũng như ở Thái Lan, những ổ chứa, nhà trọ thường phục vụ 24 trên 24. Đa số các gã đàn ông vào mua dâm là những người uống nhiều rượu, hay xay xỉn và có nhiều hành động và lời nói thô tục với các cô gái. Không ít các cô gái khi họ từ chối quan hệ với khách vì không có bao cao su thì bị đánh đập và cuối cùng cũng đành lòng phải chiều theo nhu cầu của khách. Các cô gái phục vụ khách ngay ở trong nhà chứa có phần an toàn hơn, nhưng đối với những cô đi khách bên ngoài, có nguy cơ bị đánh đập, cướp giật, thậm chí bị hiếp dâm tập thể rất cao.
Vì nghề mãi dâm là một điều mà xã hội chê bai, những nạn nhân bị ép vào những công việc này thường mang trong mình nhiều mặc cảm sâu xa cũng như những bức xúc và hờn oán. Tuy nhiên, họ thường không dám đối diện với những cảm xúc của mình, và một cách vô ý thức tìm cách đè nén những cảm xúc đó lại trong lòng. Đa số chỉ muốn che dấu quá khứ, tránh bàn thảo về những gì đã xảy ra, hay xa lánh cộng đồng, xã hội. Sau khi thoát khỏi nghề mãi dâm, nhiều cô gái có ý muốn lập gia đình, tìm cách chính trực kiếm tiền, nhưng những mặc cảm và sự gièm pha của những người chung quanh làm cho họ khó có một đời sống hạnh phúc. Những cuộc hôn nhân của họ dễ dàng kết thúc cách nhanh chóng. Những vết thương trong tâm hồn khiến cho nhiều cô gái có những cá tính quá hung hăng, hay quá rụt rè, bi quan. Họ hay rơi vào tình trạng nghiện ma túy hay cờ bạc. Nhiều người buộc phải luôn nói dối với những người chung quanh về nghề nghiệp của mình, và không thể tin tưởng vào người khác, đặc biệt là đối với nam giới.
Các nạn nhân của tệ nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em vốn đã là những người thiếu ăn học, nhưng trong môi trường làm việc này thì họ khó có thể phát triển trí óc hoặc có cơ hội để đi học hay trau dồi kiến thức. Vì thế, một khi đã rơi vào đây, sự phát triển trí tuệ ngừng lại. Các nạn nhân không học được nghề nào khác, và về sau nếu thoát khỏi nơi này thì họ cũng không biết sẽ phải làm gì để sinh sống. Chính vì thế mà chúng ta chứng kiến rất nhiều cô gái mãi dâm, sau khi đã được cứu khỏi các nhà chứa không bao lâu thì lại “ngựa quen đường cũ”. Khảo cứu ở tất cả các nước trong vùng cho thấy những cô gái mãi dâm có khả năng cao sẽ trở lại với nghề nếu họ không còn cách nào khác hay là đang cần tiền vì có sự cố trong gia đình. Theo ông Pierre Legros, giám đốc tổ chức phi chính phủ AFESIP, một tổ chức chuyên phụ trách công tác theo dõi, phát hiện, cứu nguy và hướng nghiệp cho những nạn nhân được cứu thoát, khoảng 40% các cô gái sau khi được cứu thoát đưa đến trung tâm để được chăm sóc, đã trở lại với đời sống mãi dâm. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất khiến một cô gái đồng ý việc mãi dâm là vì số nợ đối với bọn buôn người quá cao. Lợi dụng sự thiếu học hành của các cô gái, bọn buôn người tính nợ trên trời mà chỉ có mãi dâm mới có thể hoàn trả được. Theo điều tra của Tổ chức Di Dân Quốc Tế (IOM) với 1.082 trường hợp phụ nữ và trẻ em bị đưa sang Trung Quốc (tính đến 1-2003), trong đó 5,5% là mù chữ và 46.6% chỉ có trình độ tiểu học.
Hậu quả của tệ nạn gây ra cho xã hội cũng không kém phần nghiêm trọng. Theo nhận xét của ông John Miller, một viên chức của cơ quan chống tệ nạn buôn người thuộc bộ ngoại giao Hoa Kỳ: “Vấn đề gây quan ngại đến cả nền an ninh quốc gia, nếu nhìn vào thực trạng buôn người và tác hại của nó đối với cả nước, từ phá vỡ gia đình, đến gây hại cho bộ máy chính quyền…Khi thấy nạn buôn người, ta sẽ nhận thức được rằng nó có thể là nguyên nhân bất ổn của cả một quốc gia”.[xxxiii] Tại Á Châu có trên 8 triệu người đã bị nhiễm HIV, là nơi nghiệm trọng nhất sau vùng Châu Phi. Riêng ở Trung Quốc, báo cáo của tổ chức Y Tế Thế giới (WHO) cho hay có đến 840.000 người bị nhiễm HIV đã được phát hiện.[xxxiv] Tổ chức UNAIDS cảnh báo rằng nếu tình trạng không được khắc phục thì đến năm 2010, nước này có thể có đến 10 triệu người bị nhiễm. Tại Campuchia, trong 13 triệu dân đã có 2,68% người tuổi từ 15-49 bị nhiễm. Đây là tỷ số cao nhất trong vùng Châu Á-Thái Bình Dương. Ở đây mỗi ngày có thêm khoảng 20 ca nhiễm được phát hiện.[xxxv] Tại Việt Nam, số người bị nhiễm HIV đã lên đến 86.000 người.[xxxvi] Tuy nhiên, nhiều chuyên gia ước lượng con số thực sự có thể lên đến 300.000.[xxxvii] HIV bị lây lan trong xã hội qua nhiều cách, trong đó có việc sử dụng chung kim để chích ma tuý. Tuy nhiên, số người bị lây nhiễm trực tiếp hay gián tiếp qua đường quan hệ với gái mãi dâm chiếm một tỷ số đáng kể ở tất cả các nơi trong vùng, góp phần vào sự khủng hoảng và thiếu an sinh trong xã hội vốn đã gặp phải nhiều thách thức trong tiến trình phát triển kính tế.
Trong khi sự ổn định và phát triển của đất nước đã là một vấn đề khó khăn, những người quan tâm đến xã hội còn băn khoăn về tinh thần của cộng đồng khi xóm giềng, bạn bè, cha mẹ sẵn sàng bán người thân của mình chỉ vì trả một món nợ hay muốn tìm ra tiền. Xã hội Việt Nam, vốn mang ảnh hưởng của Nho giáo là một văn hoá mà mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái được nâng lên như một cột trụ của xã hội, nhưng rồi cũng có lẽ do ảnh hưởng của nền nho giáo đó, chỉ đặt nặng mối quan hệ giữa cha mẹ và người con trai nên các đứa con gái được xem như những dụng cụ mà người ta có thể đem đi cầm để trả nợ khi hoàn cảnh gia đình trở nên túng thiếu. Như nhận xét của ông Andrew Bruce, trưởng phái đoàn Tổ chức Di Dân Quốc tế tại Việt Nam, "Những cô gái Việt Nam bị đưa sang Campuchia hay Trung Quốc phần lớn là do sự khuyến khích của gia đình như một cách giúp họ thoát khỏi nợ nần".[xxxviii]

Ngày càng có nhiều người nước ngoài từ phương Đông lẫn phương Tây đã bắt đầu xem Việt Nam như một nguồn cung cấp những cô gái trẻ đẹp để thoả mãn ham muốn dục vọng của họ. Họ đến đây tìm vui qua trung gian của các công ty du lịch tư nhân lẫn nhà nước, và các công ty này sẵn sàng mắt nhắm tai ngơ để thu lợi. Và họ không còn chỉ đến Việt Nam để tìm những cô gái đẹp và rẻ mà có thể tìm đến các cô gái Việt Nam ở những quốc gia lân cận. Tiến sĩ Steven Hawkins, giảng sư môn nhân chủng học tại viện Đại học Hawaii đưa ra nhận xét về văn hoá Á đông, trong đó còn có “quan niệm huyễn hoặc hay nhu cầu cổ hủ là phải gái trinh mới đem lại may mắn hay tài lộc”.[xxxix] Theo hãng Tin Nhanh Việt Nam thì trường hợp ông Lương Quốc Dũng bỏ ra một số tiền lớn để mua trinh một bé gái tại khách sạn Eden vì ông tin rằng, làm như vậy sẽ giúp ông vận may đỏ như son và lên cao như diều.[xl] Và vì vậy mới có việc đàn ông Đài Loan, Nhật, Hàn đến ĐNA để hái lộc trên thân hình của các cô gái Việt Nam. Còn có nhu cầu nhiều hơn thì họ có thể mua các cô gái Việt Nam như những món hàng để đem về xứ sở, sau khi diễn ra việc chọn lựa, thương lượng, và mặc cả. Ở Đài Loan, các cô gái Việt Nam còn được chào hàng, quảng cáo trên các kênh truyền hình,[xli] và trước những ngôi chùa.[xlii] Ở trên đường của thủ đô Seoul, Hàn Quốc, một băng-rôn quảng cáo: “Hãy cưới cô dâu Việt Nam” có kèm chú thích bằng hàng chữ nhỏ phía dưới: “Chú rể có thể là người độc thân, đã ly dị, hay khuyết tật”.[xliii] Ngày nay kinh tế Việt Nam đang trên đà thăng tiến. Hàng Việt Nam đang được giới thiệu cho toàn thế giới, trong đó có hải sản, đồ may mặc, đồ gia dụng. Nhưng có lẽ khi Nhà nước chuyển sang kinh tế thị trường thì không ai ngờ rằng một trong những "sản phẩm" mà thế giới biết đến và tìm mua không chỉ là những thứ trên nhưng còn là các phụ nữ, trẻ em ở miền quê Việt Nam.

Nỗ lực đối phó
Tệ nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em được bàn ở đây chỉ là một góc nhìn rất hẹp về một vấn đề không chỉ ảnh hưởng đến đất nước và con người Việt Nam, nhưng cả thế giới. Nỗ lực của chính quyền Việt Nam thời gian qua bao gồm việc cải tiến cách đối phó với những tổ chức ngày càng tinh vi. Trước đây, theo nhận xét của ông Vincent Dehon của tổ chức Oxfam: Việt Nam “ứng xử như không bao giờ có nạn buôn người trong nước. Không một viên chức nào muốn đề cập đến điều này bất kể họ biết rõ phụ nữ và trẻ em Việt Nam đã bị bán qua Lào, Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc”.
[xliv] Nhưng giới chức trách cũng đã phần nào nhận ra rằng đây là một vấn nạn cần sự đối phó cấp thiết. Tháng 3, 2004 các phụ nữ đại diện cho Việt Nam và Lào đã tổ chức hội thảo ở Hà Tĩnh để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, và xây dựng kế hoạch hành động. Một tháng sau, lần đầu tiên diễn ra một hội nghị giữa bộ Công an Việt Nam và Công an Trung Quốc để thảo luận về tệ nạn đang xảy ra giữa hai quốc gia. Vào tháng 6, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam và tổng hội Phụ nữ Trung Quốc cũng đã bắt đầu một chiến dịch truyền thông được tiến hành ở các trường, khu dân cư ở các tỉnh Thanh Hoá, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Nghệ An và tỉnh Quảng Tây (TQ). Những người tổ chức hy vọng rằng chiến dịch này sẽ nâng cao trí thức của cộng đồng đặc biệt là những người phụ nữ, trẻ em ở vùng biên giới. Chỉ một tháng sau, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chương trình hành động phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004-2010.
Chương trình hành động của Nhà nước nhằm tìm ra một khả năng đối phó đa dạng bao gồm những cải cách và việc thi hành các luật pháp, cứu hộ, phục hồi nhân phẩm và tái hoà nhập, ngăn chặn, tuyên truyền vận động và nâng cao nhận thức của người dân; bên cạnh đó còn nghiên cứu và xây dựng một mạng lưới hợp tác xuyên quốc gia. Tuy nhiên, nhiều tổ chức quốc tế quan sát nỗ lực của Việt Nam cho rằng các cố gắng chưa được đồng bộ và vẫn còn kém hữu hiệu. Mặc dầu Việt Nam đã có luật phạt tới 20 năm tù những đối tượng khai thác phụ nữ và trẻ em cho việc mãi dâm nhưng lại không có luật trừng trị các hình thức buôn người nhằm cưỡng bức lao động. Theo nhận xét của Andrew Bruce ở tổ chức Di Dân Quốc tế, hiện nay Việt Nam chưa có một uỷ ban phối hợp các hoạt động chống buôn bán phụ nữ là một điều làm cho quá trình đấu tranh gặp nhiều khó khăn. Theo ông, khó khăn lớn nhất là ở "thái độ của xã hội đối với những nạn nhân của hành vi buôn bán này. Ở Việt Nam họ thường bị coi là kẻ có tội chứ không phải là nạn nhân. Tôi nghĩ rằng họ nên được đối xử một cách nhân đạo sau khi sống sót từ những bạo hành, lạm dụng, bóc lột ở nước ngoài chứ không phải là đưa họ vào các trại giam để đẩy họ vào địa ngục lần nữa. Vấn đề là làm sao đưa họ hoà nhập vào cuộc sống, có công ăn việc làm ổn định và duy trì liên hệ với gia đình".[xlv]

Một phát hiện từ các cuộc điều tra có thể gây nên thái độ thiếu thông cảm trong xã hội, đó là trong các trường hợp bị lừa ra nước ngoài, rất nhiều nạn nhân là các những người không thích làm công việc vất vả nhưng lại muốn có thu nhập cao hơn, mặc dầu họ không thể hoặc không có cơ hội học hành. Có rất nhiều cô gái bị lừa với những mức lương lên đến 5-6 triệu/tháng chỉ cho công việc đi bán café ở thành phố. Tình trạng này khiến dư luận cho rằng đây là hậu quả của sự đua đòi, muốn có tiền dễ dàng mà không phải chảy mồ hôi. Dư luận này đặc biệt hướng về các cô dâu lấy chồng Đài Loan già cả, bệnh tật chỉ vì muốn thăng tiến về kinh tế. Họ sẵn sàng tham gia vào các cuộc "tuyển chọn" trong đó các cô gái phải khỏa thân để cho khách xem “hàng”. Những cô gái khác không được chọn đành phải toại nguyện với nghề bán café, bia ôm trong thành phố để trả nợ cho các môi giới đã bỏ công ra chạy chọt, giúp đỡ, giới thiệu, mặc dầu không thành. Tuy nhiên, theo các chuyên gia bảo trợ nhân quyền, nguyên do quan trọng ở đây không hẳn như nhận xét của xã hội nhưng xuất phát từ tình trạng thiếu tri thức, hiểu biết khiến cho họ dễ dàng rơi vào cái bẫy của giới buôn người. Nạn buôn người và mãi dâm phát triển gắn liền với sự nghèo khổ, nỗi tuyệt vọng, và sự thiếu hiểu biết của các nạn nhân.
Vấn đề buôn bán phụ nữ, trẻ em không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn do những yếu tố xã hội văn hoá. Xã hội Châu Á nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng ít có thiện cảm với những cô gái tham gia vào những công việc bán thân, mặc dầu đó là một sự hy sinh vì hoàn cảnh kinh tế gia đình. Song, 41% trẻ em Việt Nam trong nghề mãi dâm lại được giới thiệu vào nghề này qua người thân, xóm giềng. Trong xã hội Việt Nam, việc các thanh niên, đàn ông tham gia vào việc mua dâm đã trở nên chuyện bình thường. Thời gian qua có nhiều dư luận trong báo chí, có những tiếng nói trong chính quyền cho rằng nhiều tệ nạn ở Việt Nam là nhằm đáp ứng những nhu cầu đồi bại của người nước ngoài hay giới Việt Kiều về nước lợi dụng giá rẻ để chơi gái đẹp. Nhưng thực trạng cho thấy việc ăn chơi của người Việt trong nước, ngay cả trong giới cán bộ quan chức rất phổ biến. Chắc chắn nếu những quán bia ôm, dịch vụ massage, và tụ điểm karaoke ôm được dựng lên để chỉ phục vụ khách Việt Kiều và du khách nước ngoài thì những tụ điểm này khó có được nhiều lợi nhuận, và số tụ điểm cũng không nhiều như hiện nay. Trong xã hội Việt Nam, việc một đám thanh niên rủ nhau đi massage ở một tụ điểm có mãi dâm xem ra không còn xa lạ nữa. Một nhóm đồng nghiệp sau giờ làm việc kéo tới một tụ điểm bia ôm cũng là sự thường rồi. Não trạng người Việt xem ra hơi lạ nếu không nói là ngược đời - một mặt là coi thường, gièm pha những cô gái mãi dâm, mặt khác lại giới thiệu, khuyến khích, và còn ép buộc phụ nữ vào nghề này, cũng như có những thái độ thông cảm và chấp nhận đối với nam giới trong việc mua dâm, làm cho tệ nạn ngày càng gia tăng.

Tạm kết

Từ khi đất nước thống nhất, Nhà nước đã có tham vọng thay đổi những suy nghĩ cũ kỹ, lạc hậu của thời phong kiến. Nhưng hiện nay, sự cải tiến trong lối suy nghĩ đã chưa được thể hiện thật sự, cụ thể là đối với sự tôn trọng quyền lợi và nhân phẩm của phụ nữ, trẻ em. Thiết nghĩ luật pháp, chính sách, phương pháp áp dụng phải khởi đi từ một não trạng và thái độ hiểu biết hơn. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước có trách nhiệm xây dựng hệ thống gia đình Việt Nam, đặc biệt là trong thời kỳ mà những thay đổi trong xã hội và kinh tế đang tạo ra nhiều áp lực trên các gia đình. Hình như thời gian qua, nền tảng gia đình Việt Nam đã chịu những ảnh hưởng quá tiêu cực khiến cho các gia đình không đủ sức mạnh để chống cự trước sức ép mãnh liệt của sự thay đổi, khiến nhiều gia đình phải bôn ba để kiếm sống. Trong nền kinh tế mới này, thiếu sự bảo hộ, nâng đỡ, và điều kiện để chạy theo những xu hướng thời đại, các gia đình Việt Nam hình như chỉ có thể tìm lối thoát bằng cách vắt cạn những gì họ có, có khi chỉ còn cách bán con hoặc bán thân. Trong bối cảnh này, thiết nghĩ các chiến dịch tuyên truyền, các nghị quyết chính phủ, các hành động cứu hộ và phục hồi nhân phẩm sẽ khó gặt hái được kết quả. Nỗ lực của Nhà nước không thể chỉ nhắm vào thi hành luật pháp, trong đó cần có sự đồng bộ trong sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, và tính chặt chẽ trong sự phối hợp giữa các nước trong việc chống tội phạm buôn người; nhưng phải xuất phát từ một cái nhìn sâu sắc về văn hoá, gia đình, và vai trò của Nhà nước là giúp người dân hạn chế những khuynh hướng tiêu cực của não trạng trọng nam khinh nữ, đồng thời tạo điều kiện cho đời sống gia đình được củng cố qua những chính sách thuận lợi cho việc duy trì sự chặt chẽ của từng gia đình. Vì như chúng ta thấy cách rõ ràng, khi gia đình gặp khó khăn, khi đời sống người dân túng thiếu, những người trở nên nạn nhân trong xã hội luôn là người phụ nữ và những em gái.

_______________

[i] eBAY Inc. là một chợ online tầm cỡ quốc tế có nhiều người sử dụng trên thế giới, mua bán hàng triệu loại đồ một lúc từ sách vở đến máy móc, quần áo.[ii] UNICEF, “Children and Women: A Situation Analysis, 1999”.[iii] Nguyễn Phong Hoà, “The Trafficking of Women and Children – Problems and Solutions”. Paper presented in the Regional Conference on “Illegal Labour Movements: The Case of Trafficking in Women and Children” in Thailand, 1997.[iv] Tinh Nhanh Việt Nam, 24.10.02.[v] Thanh Niên, 24.6.04.[vi] Người Lao Động, 23.3.05[vii] Thanh Niên, 12.7.04.[viii] RFA, 9.9.03.[ix] Tuôi Trẻ, 3.11.04.[x] Tin Nhanh Việt Nam, 8.9.03. Ngoài ước lượng này còn có những ước lượng với những con số khác nhau.[xi] Thanh Niên, 13.11.03.[xii] Thông Tấn Xã Việt Nam, 6.8.03.[xiii] Tin Nhanh Việt Nam, 10.5.02.[xiv] Lao Động, 27.9.01[xv] Vietnam Country Study.[xvi] RFA, 21.11.02.[xvii] Cambodia Country Study, 1996.[xviii] A.P., 16.4.01.[xix] Sunday Telegraph, 15.9.02[xx] Associated Press, 5.1.04.[xxi] UN Chronicle, no.2, 2003.[xxii] RFA, 4.3.04.[xxiii] Sunday Telegraph, 15.9.02.[xxiv] NBC News, Dateline, 4.04.[xxv] NBC News, Dateline, 4.04.[xxvi] Paul Handley, “Catch if catch can,” Far Eastern Economic Review, 13.2.92, tr.29.[xxvii] Mark J. VanLandingham, et al, "Sexual Activity Among Never-Married Men in Northern Thailand," Demography, Volume 30, No.3, 8.1993, tr.305[xxviii] The Economist, 8.2.1992, tr.33[xxix] Deutsche Press – Agentur, 2.3.98.[xxx] Reuters, 31.5.99.[xxxi]Tin Nhanh Việt Nam, 19.10.04[xxxii]Tuổi Trẻ Chủ Nhật, 29.6.97[xxxiii] RFA, 30.10.03[xxxiv] Tuổi Trẻ, 16.9.04.[xxxv] RFA, 11.7.04.[xxxvi] Vietnamnet, 4.11.04.[xxxvii] AFP, 25.8.04.[xxxviii] Thông Tấn Xã Việt Nam, 3.6.04.[xxxix] RFA, 21.11.02.[xl] RFA, 19.10.04.[xli] RFA, 10.8.04.[xlii] AFP, 6.11.04.[xliii] Tuổi Trẻ, 3.11.04.[xliv] RFA, 21.11.02.[xlv] Thông Tấn Xã Việt Nam, 2004.